Tag Archive | văn hóa

Khu di tích Khảo cổ học Thần Sa, xã Thần sa, huyện Võ Nhai

Theo Quốc Lộ 1B di tích khảo cổ thuộc xã Thần Sa, huyện Võ Nhai cách thành phố Thái Nguyên 40 km về phía Bắc. Nơi đây những di chỉ khảo cổ đồ đá về con người sống cách chúng ta chừng 2 – 3 vạn năm được phát hiện ở hang Phiềng Tung (hang Miệng Hổ), Ngườm thuộc vùng Thần Sa chứng minh rằng tại đây đã tồn tại một nền văn hoá cổ gọi là văn hoá Thần Sa. Đây là nền văn hoá cổ nhất được biết đến cho tới nay ở Việt Nam và cả vùng lục địa Đông Nam Á.

Di tích khảo cổ học Thần Sa đã được nhà nước xếp hạng bảo tồn Quốc Gia. Đến với Thần Sa du khách đến với vùng núi đá vôi hùng vĩ, non xanh, nước biếc, du khách có thể thoả ước để xem và suy ngẫm tương tư về cuộc sống người xưa, và nay, đến Thần Sa để được ngắm tận mắt những bản nhà sàn đẹp mà ít nơi có được.

than sa1(1)

Khu di chỉ hang động ở Thần Sa thuộc thời đại đồ đá cũ, có niên đại cách ngày nay từ 30.000 đến 10.000 năm,được phát hiện năm 1972 và đã trải qua nhiều lần khai quật;gồm các di chỉ: Phiêng Tung, Ngườm, Thắm Choong, Ranh 1, Ranh 2, Hạ Sơn 1, Hạ Sơn 2, Nà Ngùn, Nà Khù… Continue reading

GIAO LƯU VĂN HOÁ QUA CỔ VẬT*

Ngay từ khi quan hệ Việt – Mỹ còn chưa bình thường hoá, năm 1988, ba nhân vật quan trọng của Bảo tàng Nghệ thuật Á châu San Phancisco là giáo sư Nancy Tingley, Clarence Shangraw, Linda Schieler Marks đã sang Việt Nam bàn về dự án đưa cổ vật Việt Nam sang triển lãm tại Mỹ. Do quan hệ hai nước còn phức tạp, việc đưa cổ vật ra nước ngoài còn là điều mới mẻ nên việc thương lượng phải kéo dài tới…20 năm. Mãi tới năm 2009, hơn trăm cổ vật tiêu biểu VN mới được xuất dương, thực hiện sứ mệnh ngoại giao văn hoá trên đất Mỹ tại Bảo tàng Nghệ thuật Houston ( từ 13/9/2009 đến 3/1/2010 ) và sau đó tại BT Xã hội Châu Á New York ( 2/2 – 2/5/2010 ). Các hiện vật được chọn lọc từ 9 bảo tàng lớn của VN đã gây tiếng vang trong quan hệ Văn hoá hai nước sau khi hai nước đã bình thường hoá quan hệ vào năm 1994.

Continue reading

Vĩnh Long: Khai mạc trưng bày chuyên đề “Tục ăn trầu các dân tộc Việt Nam”

Sáng ngày 23/11/2017, Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Vĩnh Long tổ chức khai mạc trưng bày chuyên đề “Tục ăn trầu các dân tộc Việt Nam”.

Trưng bày chuyên đề “Tục ăn trầu các dân tộc Việt Nam” giới thiệu đến công chúng trên 240 hiện vật, tài liệu, hình ảnh tiêu biểu về tục ăn trầu các dân tộc Việt Nam như: Hộp đựng trầu cau, bình vôi, ống ngoái trầu, ống nhổ, dao bổ cau… Continue reading

Kho cổ vật của “dị nhân” Nguyễn Văn Hưng – Gia Lai

Từ thú “chơi ngông”

Trong căn nhà rộng khoảng 50 m2 ở xã Ia Kly, anh Hưng đã chất đầy hàng ngàn cổ vật. Anh kể: Hiểu biết một chút về cổ vật nên khi mình đi làm thấy người ta bán thế là mua, có nhiều cổ vật thấy người dân vứt ra góc vườn, xin cũng ngại nên trả cho người ta ít tiền thế là họ bán. “Kiếm được đồng nào là mình lại bỏ ra mua cổ vật, chỉ để lại một ít lo cho mấy đứa con ăn học”.

Continue reading

NGÔI NHÀ 4000 CỔ VẬT – Vĩnh Phúc

Nhận thức trước các giá trị văn hoá làng quê đang ngày dần mai một; từ những năm 90 của thế kỷ XX, anh nông dân Nguyễn Văn Trường ở xã Chấn Hưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc đã ấp ủ, cóp nhặt, sưu tầm các đồ gốm, sứ cổ trong xóm ngoài làng với một ý nghĩ “gìn giữ văn hoá cho làng”.

(Anh Nguyễn Văn Trường và ngôi nhà cổ vật)

Continue reading

Sự thành lập vương triều nhà Hồ và những cải cách của Hồ Quý Ly

Cuối thời nhà Trần, cuộc đấu tranh giữa khuynh hướng bảo thủ quân chủ quý tộc của tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần và khuynh hướng quân chủ tập trung quan liêu của lực lượng quan liêu, tầng lớp nho sỹ, mà người đại diện tiêu biểu nhất là Hồ Quý Ly, đã diễn ra rất quyết liệt. Cuối cùng Hồ Quý Ly đã thắng thế, năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly quyết định phế truất vua Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua, lập ra một vương triều mới, đặt quốc hiệu là Đại Ngu, vương triều nhà Hồ chính thức được thành lập.

Tháng 12 năm 1406, quân Minh sang xâm lược nước ta, vua tôi nhà Hồ đã kiên quyết chống lại quân xâm lược, nhưng do lực lượng yếu, đến tháng 6 năm Đinh Hợi 1407, cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược do vương triều nhà Hồ lãnh đạo đã thất bại hoàn toàn. Cha con Hồ Quý Ly cùng nhiều tướng lĩnh bị bắt giải về Kim Lăng (Trung Quốc). Như vậy vương triều nhà Hồ mới thành lập được 7 năm đã bị sụp đổ hoàn toàn, và trong thời gian 7 năm tồn tại đó, nhà Hồ truyền nối được hai đời đế vương, thế thứ cụ thể như sau:

Hồ Quý Ly (1336-1407)

Hồ Quý Ly sinh năm Bính Tý 1336, mất năm Đinh Hợi 1407, tự là Ly Nguyên, vốn thuộc dòng dõi Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, ngụ ở làng Bào Bột, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Tổ tiên từ bốn đời trước là Hồ Liêm rời ra hương Đại Lại, huyện Tống Sơn (nay thuộc xã Hà Đông, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa), làm con nuôi quan Tuyên úy hương Đại Lại là Lê Huấn, nên đổi sang họ Lê, vì thế sử sách vẫn quên gọi là Lê Quý Ly.

Hồ Quý Ly là người thông minh có tham vọng lớn, biết nhìn xa trông rộng, ông vốn có hai người cô đều là cung nhân của triều nhà Trần, một bà là Từ Hoàng sinh ra vua Trần Nghệ Tông (1321-1394), và một bà là Đôn Từ sinh ra vua Duệ Tông (1337-1377). Vì có hai người cô đều là cung nhân trong triều nhà Trần, cho nên khi lớn lên Hồ Quý Ly đã được vào triều làm quan cho nhà Trần. Hồ Quý Ly được vua Trần Nghệ Tông gả công chúa Nhất Chi Mai và trở thành phò mã của vương triều nhà Trần.

Hồ Quý Ly có tham vọng lớn, và có tham vọng xây dựng một nền văn hóa dân tộc, cho nên khi ông nhìn thấy triều đại nhà Trần ngày càng suy yếu, ông liền mưu toan gây dựng vây cánh, thế lực để tích cực giành lấy chính quyền về tay mình. Dần dần những chức vụ quan trọng chủ chốt trong triều đều nằm trong tay Hồ Quý Ly. Từ năm 1391, Hồ Quý Ly đã thâu tóm hết binh quyền vào tay mình, một số quan lại không cùng phe cánh đã bị Hồ Quý Ly tìm cách giết chết.

Năm Mậu Dần 1398, Hồ Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông (1377-1399) phải nhường ngôi cho Thái tử Án mới 3 tuổi lên nối ngôi, hiệu là Trần Thiếu Đế. Hồ Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương, và ngay sau đó sai người giết chết vua Trần Thuận Tông.

Dòng dõi tông thất nhà Trần có những người như Thái Bảo Trần Nguyên Hãn (?-1429), và Thượng tướng Trần Khát Chân (1370-1399) lập hội kín để mưu diệt trừ Hồ Quý Ly, việc bại lộ, bị Hồ Quý Ly bắt giết chết hơn 370 người, Trần Nguyên Hãn trốn thoát, sau này trở thành một trong 5 danh tướng hàng đầu của nghĩa quân Lam Sơn, và trở thành công thần khai quốc của nhà Hậu Lê.

Sau khi diệt trừ tông thất nhà Trần, Hồ Quý Ly xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, ở cung Nhân Thọ, ra vào dùng nghi vệ Thiên tử, nhưng ông vẫn chưa dám cướp ngôi nhà Trần, chưa dám trắng trợn xưng là “trẫm” mà chỉ xưng là “dư”.

Đến tháng 2 năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, chính thức lên ngôi Hoàng đế, đổi lại họ Hồ như trước, nguyên họ Hồ có nguồn gốc từ Trung Quốc sang Việt Nam, tính đến thời Hồ Quý Ly đã được 16 đời. Mặt khác, Hồ Quý Ly cũng muốn nhận mình là dòng dõi của Ngu Thuấn (một trong 5 vị vua thời Tam Hoàng – Ngũ Đế thời cổ đại ở Trung Quốc), cho nên sau khi lên làm vua, Hồ Quý Ly đã đặt quốc hiệu nước ta thời đó là Đại Ngu. Sau này nhà Hồ bị nhà Minh tiêu diệt, vua Minh Thành Tổ nhà Minh không công nhận họ Hồ là dòng dõi của người Trung Hoa, cho nên Hồ Nguyên Trừng (con trưởng của Hồ Quý Ly) sau đó phải đổi lại họ là họ Lê, tức là Lê Nguyên Trừng.

Sau khi lên làm vua, Hồ Quý Ly lấy niên hiệu là Thánh Nguyên, cho tuyển chọn đề bạt và tổ chức thi cử nhanh chóng để đào tạo đội ngũ quan liêu mới cho nhà nước, chế độ quân chủ quan liêu mới đã hình thành.

Về mặt quân sự: Bề ngoài Hồ Quý Ly vẫn lấy lễ mà đối đãi với nhà Minh, nhưng vẫn biết chúng có ý xâm lược nước ta, cho nên Hồ Quý Ly đã ráo riết tổ chức quân đội, định lại binh chế, chỉnh đốn lại tổ chức quân đội, tăng cường kỷ luật quân ngũ. Quân đội được biến chế thành các quân đô, vệ, đứng đầu có các đại tướng, đô tướng v.v. Binh lực quốc gia gồm có 20 vệ, mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người, đại quân thì có 30 đội, trung quân thì có 20 đội, một doanh có 15 đội, một đoàn có 10 đội.

Hồ Quý Ly còn cho tiến hành làm lại sổ hộ tịch kiểm kê dân số trong cả nước, ghi tên tất cả con trai từ 2 tuổi trở lên, cấm ẩn lậu nhà đinh nhằm tăng cường quân số để xây dựng đạo quân một triệu người. Hồ Quý Ly còn chủ trương cải tiến vũ khí và trang bị, mở xưởng đúc vũ khí, chế tạo súng thần cơ có sức công phá lớn, các xưởng đóng thuyền đinh sắt, thuyền chiến có nhiều mái chèo, đây là những vũ khí và trang bị mới của nhà Hồ. Hồ Quý Ly còn cho xây dựng thành Tây Đô (Thanh Hóa), ngày nay gọi là thành nhà Hồ (huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), và thành Đa Bang (ngày nay thuộc xã Cổ Pháp, huyện Ba Vì, Hà Nội) kiên cố, và nhiều công trình phòng thủ khác, gồm những bãi cọc, xích sắt để ngăn các cửa sông, cửa biển.

Thành Tây Đô hay còn gọi là thành nhà Hồ

Về mặt hành chính: Hồ Quý Ly đổi các xã, lộ làm trấn, đặt thêm các chức An phủ phó sứ, Trấn thủ phó sứ, cùng các phó sứ khác ở các châu, huyện. Còn ở các lộ thì đặt những quan chức lớn như Đô hộ, Đô thống, Thái thú quản cả việc quân sự và dân sự, ông còn đặt thêm chức Liêm phóng sứ tại mỗi lộ để xét tình hình quân dân.

Về mặt kinh tế: Cải cách quan trọng nhất của Hồ Quý Ly là phép hạn điền, hạn nô, chiếu theo cấp bậc, phẩm tước được nuôi một số gia nô nhất định, số thừa phải sung công, và cho phát hành tiền giấy. Năm Nhâm Ngọ 1402, ban hành chính sách thuế khóa mới, mỗi mẫu ruộng thu 5 thăng thóc, đất bãi trồng dâu thu từ 3 đến 5 quan. Thuế nhân đinh bỏ cách đánh thuế đồng đều của thời nhà Trần mà đánh theo lũy tiến, nhiều ruộng thì thuế suất cao, người không có ruộng, trẻ mồ côi, đàn bà góa bụa thì được miễn thuế.

Đó là những cải cách tiến bộ, nhằm tước giảm thế lực của quý tộc nhà Trần, giải quyết tình trạng kiệt quệ tài chính của triều đình. Theo phép hạn điền trừ đại vương và trưởng công chúa, mỗi chủ đất chỉ được giữ 10 năm trở xuống, sổ sách phải sung công, nghĩa là khôi phục chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất, ai có tội được phép lấy ruộng mà chuộc tội.

Về cải cách văn hóa – giáo dục thi cử: Triều đại nhà Hồ rất coi trọng Nho học. Trên thực tế, ngay từ khi còn làm phụ chính cho vua Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly đã dịch Thiên Vô Dật trong Kinh Thi ra quốc âm để dạy vua học. Sau khi lên làm vua được 8 tháng, Hồ Quý Ly đã tổ chức kỳ thi Thái học sinh lấy 20 Tiến sỹ, khoa thi này rất nổi tiếng vì có các bậc danh nho như Nguyễn Trãi (1380-1442) người sau này trở thành nhân tài của đất nước; Lý Tử Tấn – tác giả cuốn sách Chiết Am thi tập với 93 bài thơ còn chép trong Toàn Việt thi tập; Vũ Mộng Nguyên – tác giả một số bài thơ chữ Hán cũng được chép trong Toàn Việt thi tập.

Đến năm Giáp Thân 1404, Hồ Hán Thương xuống chiếu quy định cứ 3 năm thi Hội một lần, ai đỗ thi Hương thì 8 tháng sau về kinh kiểm tra ở Bộ Lễ để năm sau nữa vào thi Hội. Thời gian lưu lại ở kinh đô, những người này được học tập ở Văn Miếu Quốc Tử Giám. Trường Quốc Tử Giám lúc bấy giờ có thể đã chia làm hai hạng gọi là “trại”. Số cử nhân trong nước về thi ở Bộ Lễ năm Ất Dậu 1405 được lấy trúng cách 170 người, nhưng chưa kịp thi Hội thì xảy ra cuộc xâm lược của nhà Minh vào cuối năm Bính Tuất 1406.

Về mặt văn hóa xã hội: Hồ Quý Ly phản đối lối học sáo rỗng, nhắm mắt học vẹt lời nói của cổ nhân thời xưa để xét việc trước mắt. Trước đó, vào năm Nhâm Thân 1392, Hồ Quý Ly đã soạn sách Minh Đạo gồm 14 thiên đưa ra những kiến giải xác đáng về Khổng Tử (551 Tr.cn-479 Tr.cn), và những nghi vấn có căn cứ về sách Luận Ngữ – một trong bốn tác phẩm kinh điển của Nho giáo (Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh Tử).

Hồ Quý Ly còn cho mở “Quảng tế thu” – một loại bệnh viện công, chữa bệnh bằng châm cứu, và tập hợp kho thóc rẻ cho người nghèo. Việc Hồ Quý Ly cho ban hành côn, thước, đấu để thống nhất đo lường cũng góp phần tăng thêm giá trị văn minh của đời sống xã hội thời bấy giờ.

Lên làm vua được hơn 1 năm, Hồ Quý Ly cũng bắt chước các vua nhà Trần trước đó, nhường ngôi lại cho người con thứ là Hồ Hán Thương, còn mình thì lên làm Thái Thượng Hoàng. Tuy nhiên mọi việc triều chính vẫn do Hồ Quý Ly quyết định.

Những cải cách táo bạo của Hồ Quý Ly đi trước thời đại, nhưng việc ông chiếm ngôi của nhà Trần đã gây ra nhiều phản ứng quyết liệt trong giới sỹ phu đương thời và không thu phục được lòng người. Chính vì vậy, khi quân nhà Minh gây rối và xâm lược nước ta, chúng giả danh chiêu bài “phù Trần, diệt Hồ”. Vua tôi nhà Hồ đã chiến đấu quyết liệt, quân nhà Hồ trăm vạn, nhưng không một lòng, cuối cùng đã bị thất bại. Hồ Quý Ly và hai con là Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương đều bị bắt về Trung Quốc. Hồ Quý Ly bị xử tử cuối năm Đinh Hợi 1407, hưởng thọ 71 tuổi.

Về nhân vật Hồ Quý Ly, giới sử học trong và ngoài nước có khá  nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về Hồ Quý Ly nói riêng, và vương triều nhà Hồ nói chung. Song điểm thống nhất của tất cả là sự thừa nhận rằng: Nhà Hồ tuy chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn có 7 năm (1400-1407), nhưng vương triều nhà Hồ thực sự là một triều đại của những cải cách, và đây chính là điểm nổi bật nhất của vương triều nhà Hồ.

Nguồn: http://vanhien.vn/news/vuong-trieu-nha-ho-1400-1407-trong-lich-su-phong-kien-viet-nam-47640

Đọ độ khủng của các “vua cổ vật” khắp Việt Nam

Ở Việt Nam có rất nhiều người chơi cổ vật nhưng được khâm phục về chuyên môn, đạo đức và những món đồ độc nhất chỉ có thể là “Vua cổ vật”.

Đoàn Anh Tuấn – “Vua” cổ vật hào hiệp

Ông Đoàn Anh Tuấn – Giám đốc Trung tâm UNESCO nghiên cứu, bảo tồn cổ vật Việt Nam, người hiến tặng cổ vật nhiều nhất hiện nay được mệnh danh là “Vua từ thiện cổ vật”.

Dòng họ Đoàn của ông ở phố cổ Hà Nội nổi tiếng với thú mê cổ vật. Có lẽ vì thế mà “máu” cổ vật đã ngấm vào con người ông Tuấn từ khi còn rất trẻ. Năm 1998, khi Nhà nước ban hành Luật di sản thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về cổ vật, ông Tuấn đã bán căn nhà mặt phố Trương Định để dồn tiền mua cổ vật. Thậm chí, ông còn từng hành nghề bơm vá, sửa xe đạp, xe máy, mò lên các bãi vàng để kiếm tiền mua cổ vật.

Ông Đoàn Anh Tuấn ngồi giữa căn phòng ngập cổ vật

Cổ vật được ông Tuấn bày biện khắp nhà theo niên đại. Lâu đời nhất là chiếc tủ bày các công cụ lao động sản xuất, vũ khí của người xưa, kế đến là các trang sức của nền văn hóa Đông Sơn, nhà bằng đất nung từ thời kỳ đầu công nguyên, chum, thạp thời Lý, Trần,… Những chiếc trống đồng Đông Sơn, ấm rượu đồng rèn đầu rùa thế kỷ I – III; tượng Quan âm đồng thế kỷ I được chất đầy trong căn phòng ngót nghét trăm mét vuông trên tầng 2.

Ông Tuấn cho biết, ông mua đồ cổ chỉ để chơi và hiến tặng chứ chẳng bao giờ tính đến chuyện lời lỗ. Máu cổ vật là vậy, nhưng Đoàn Anh Tuấn không bao giờ “chơi” đồ trục vớt. Ông cũng “kỵ” cổ vật Trung Quốc, chỉ thích chơi những thứ đồ mà các cụ người Việt từng dùng.

Những cổ vật được trưng bày một cách gọn gàng ngăn nắp

Được phần đông giới chơi thừa nhận là một trong những người có nhiều cổ vật nhất, nhưng Đoàn Anh Tuấn chưa bao giờ nhận mình là “vua cổ vật”. Với ông, cổ vật chính là vật chứng lịch sử, phải mang lại lợi ích văn hóa cho cộng đồng, mới là chơi cổ vật, chứ không phải cứ lao vào những món đắt tiền. Vì thế, ông liên tục mua cổ vật rồi liên tục hiến tặng lại cho các bảo tàng. Theo ông, thực chất, khi tặng – cũng như khi giúp các bảo tàng tổ chức trưng bày, là chúng tôi gửi di sản về với cuộc sống để mọi người chiêm ngưỡng, bổ sung kiến thức văn hóa truyền thống. Như vậy thì có gì phải tiếc!

Nguyễn Thanh Đạm – “Vua cổ vật” đồ đồng

Nguyễn Thanh Đạm, sinh năm 1952, ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An được mệnh danh là “vua” đồ đồng miền Trung. Hiện ông đang sở hữu nhiều cổ vật bằng đồng, trong đó có 200 chiếc mâm đồng đúc liền với những tuyệt tác được chạm khắc hết sức tinh vi, điêu luyện; bộ tượng bằng đồng, chuông đồng, khánh đồng, lư hương, đèn… có niên đại hàng trăm năm.

“Vua” đồ đồng Nguyễn Thanh Đạm luôn ý thức về việc giữ gìn các giá trị văn hóa dân tộc

Ông Đạm cho hay, gia đình ông có “vật gia bảo” lưu truyền qua 5 đời đó là những chiếc mâm đồng, lư hương mà bố ông trước khi mất có căn dặn: “Dù có đói, có chết, con cũng không được bán, đổi nó đi”. Cũng chính từ đó, trách nhiệm thiêng liêng đã đánh thức ông Đạm về việc gìn giữ, bảo quản và bổ sung thêm cho bộ sưu tập đồ đồng. Thời gian ông làm công nhân hóa chất ở Nghệ An, ngoài đồng lương ít ỏi, ông còn dành dụm tiền “săn lùng” cổ vật khắp mọi miền đất nước.

Tránh kẻ xấu đánh cắp, ông Đạm đã xếp gọn đồ đồng trong hòm sắt giấu kỹ trong hầm kín bởi hiện giờ, tường rào nhà ông không thể đảm bảo an toàn cho những hiện vật quý hiếm này.

Hơn 40 năm gìn giữ, sở hữu số lượng lớn bộ đồ đồng, ông Đạm rất tự hào và hãnh diễn về tài sản quý giá này. “Tôi không dám nói trong tay có tiền tỉ, hoặc hàng trăm triệu đôla. Tôi dám khẳng định rằng giá trị cổ vật đổi ra bằng tiền ít đại gia nào theo kịp tôi. Nhưng tôi không bao giờ bán hay đổi lấy một thứ gì”.

Hồ Tấn Phan – “Vua cổ vật” xứ Huế

Người dân xứ Huế gọi ông là “nhà nghiên cứu Huế”, hay “vua cổ vật”. Nhưng, ông chỉ nhận mình là “người tiên phong tìm đồ cổ trên dòng Hương Giang”… Ông “vua cổ vật” ấy là Hồ Tấn Phan, năm nay ngoài 70 tuổi, ở phường Phú Hiệp, TP Huế, người sở hữu một kho sách cùng hàng ngàn cổ vật quý có niên đại hơn 2.500 năm.

Ông Phan kể, cuộc hành trình đi tìm đồ cổ ấy khiến ông phải sớm chia tay với bục giảng. Năm 49 tuổi, cuộc truy tìm cổ vật được ông đầu tư công sức hơn bao giờ hết. Để có được những cổ vật như bây giờ, ông Phan phải săn lùng ở khắp nơi và nhiều khi bỏ ra số tiền lớn để có được cổ vật mong muốn.

Cổ vật mà mấy chục năm qua ông Phan cất công tìm kiếm đến giờ này đã chất đầy từ trong nhà ra đến ngoài vườn

Theo ông Phan, để sở hữu một kho tàng cổ vật không dễ chút nào. Riêng chuyện phải “đối phó” với những tay anh chị chuyên đi buôn đồ cổ đã rất khó khăn. Song, sau nhiều năm gắn bó với người dân vạn đò, khi vớt được thứ gì họ cũng đem bán cho ông với giá vừa phải.

Ông Phan khẳng định, mỗi khi tìm được cổ vật mới là ông phải thức ngày thức đêm để nghiên cứu giá trị của triết lý văn hóa và niên đại của cổ vật

Những cổ vật của ông được trưng bày khắp nơi, vì trong nhà không còn chỗ để nên ông đành để ngoài vườn. Ông Phan tiết lộ, hiện ông có nhiều loại cổ vật quý hiếm, có giá trị về lịch sử và khoa học. Đa số cổ vật của ông là đồ gốm Sa Huỳnh có niên đại hơn 2.500 năm.

Ông Phan khẳng định, người chơi cổ vật không chỉ cần tiền, cần sự nhẫn nại mà còn cần cả cái duyên, cũng giống như trai gái yêu nhau, sống với nhau cũng cần cái duyên vậy.

Hoàng Văn Cường – “Vua cổ vật” Sài thành

Dòng máu của đại gia đình buôn bán đồ cổ giúp Hoàng Văn Cường sớm nhận biết giá trị của cổ vật. Từ rất sớm, ông đã đam mê thú chơi tao nhã nhưng đầy giá trị nhân văn trên. Những ngày còn làm thầu phế liệu, Hoàng Văn Cường có cơ hội được tiếp xúc với những bảo vật mà không phải ai cũng có thể nhìn ra giá trị không tưởng của chúng. Dần dần, Cường nhận ra rằng, trong đám phế liệu mình thu gom có những thứ không thể bán đi mà phải cất giữ.

Ông “vua” đồ cổ cùng chiếc long sàng dành cho vua chúa thời Nguyễn

Khi căn nhà nhỏ 3 tầng trên phố Đông Du, (Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh) của ông chật cứng cổ vật, ông mua một căn nhà mới ở quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh để lưu giữ cổ vật ở đó. Hiện căn nhà này đang chứa tới 2.000 cổ vật. Các món cổ vật gốm sứ, từ những vật dụng bé ly ti đến kích thước lớn đều có tuổi thọ lên đến cả mấy ngàn năm. Ngoài ra, còn có những tượng phật, ống điếu, bình vôi và vô số ngọc ngà châu báu vô giá như cành vàng lá ngọc, ngọc bội, bình ngọc, có tuổi đời không dưới mấy trăm năm.

Ông thường tâm niệm: “Cổ vật là những di sản văn hóa ngàn đời của dân tộc. Nó không phải để bán mà để ngưỡng vọng, lưu giữ như một minh chứng cho nền văn hóa ngàn năm của dân tộc. Căn nhà của ông bây giờ trở thành điểm đến của du khách trong và ngoài nước, trong đó có cả những vị nguyên thủ quốc gia của các nước.

Trần Quốc Đoàn – “Vua cổ vật” miền Tây

Giới chơi đồ cổ gọi Trần Quốc Đoàn, người đang sở hữu hàng trăm món đồ cổ quý giá là “Vua bình vôi cổ đất miền Tây”. Đặc biệt, ông có bộ sưu tâp bình vôi cổ độc nhất vô nhị.

Ở tuổi 54, ông Đoàn như một nhà nghiên cứu về các các món đồ cổ đủ loại: từ bình đất nung cho đến gốm men xanh, nâu, vàng, trắng, từ bình Bát Tràng cho đến bình Trung Quốc, bình Chăm,…

Hiện nay bộ sưu tập “ông bình vôi” của ông Đoàn có trên 230 cái với đủ loại kích cỡ, màu sắc và chất liệu, hầu hết được sản xuất từ thế kỷ 18 và 19 ở Việt Nam, Trung Quốc, Chăm, Khmer,… Hầu hết các “ông bình vôi” đều có quai xách, được chạm vẽ họa tiết nhiều loài hoa, long, lân quy, phụng, hổ,… Bình vôi nào cũng có cái miệng để đổ vôi vào và lấy vôi ra ăn bằng cây chìa vôi (được làm bằng đồng, phía trên có nút gù, vừa để cầm, vừa để bịt kín miệng bình vôi không cho gió lọt vào làm đông vôi).

Ngoài ra, ông Đoàn còn sở hữu trên 100 tấm Sắc phong là những tấm văn bản do vua chúa triều Nguyễn phong thưởng cho các vị quan thần, bộ men Lâm Quế trên 100 món gồm: tô, chén, đĩa, tách,… có từ thời vua Gia Long, cùng vài trăm món cổ vật khác từ các loại chóe rượu, bình hoa, mặt rồng, đèn Tây.

Ông Đoàn chỉ có một nguyện vọng là sưu tầm và lưu giữ lại những cổ vật, kỷ vật gia truyền của người Nam Bộ xưa, góp phần lưu giữ những nét văn hóa truyền thống để con cháu thế hệ sau này biết đến.

Nguồn: baomoi.com

Bắc thuộc và chống Bắc thuộc: Những dấu tích văn hóa vật chất

BẮC THUỘC VÀ CHỐNG BẮC THUỘC: NHỮNG DẤU TÍCH VĂN HÓA VẬT CHẤT

 Nguyễn Quang Ngọc

                          ( Bài tham luận tại Hội thảo Khảo cổ học Đức -Việt  ngày  1-2/3/2012 )

  1. KHÁI QUÁT 10 THẾ KỶ BẮC THUỘC VÀ CHỐNG BẮC THUỘC

Năm 179 TCN, thành Cổ Loa thất thủ trước cuộc tiến công xâm lược của Triệu Đà, Âu Lạc bước vào đêm trường Bắc thuộc kéo dài hơn 1000 năm.

Triệu Đà chia Âu Lạc ra làm hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân và sát nhập vào nước Nam Việt. Quận Giao Chỉ tương đương với khu vực Bắc Bộ và quận Cửu Chân tương đương với các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Tại đây, chính quyền Nam Việt cắt đặt 2 viên sứ thần coi giữ và trong thực tế mới chỉ cai trị một cách lỏng lẻo thông qua hình thức thu nộp cống vật.

Năm 111 TCN, Nam Việt bị Tây Hán thôn tính. Trên lãnh thổ Nam Việt cũ, Tây Hán chia ra làm 9 quận là Đam Nhĩ, Châu Nhai (thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (đều thuộc các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc), Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam (tương đương với vùng từ Quảng Bình đến Quảng Nam). Đến năm 106 TCN, nhà Tây Hán đặt châu Giao Chỉ thống suất 7 quận lục địa (trừ Châu Nhai và Đam Nhĩ) và đặt Châu trị tại quận Giao Chỉ. Bộ máy cai trị của nhà Tây Hán tại Giao Chỉ được thiết lập chặt chẽ hơn so với nhà Triệu. Thứ sử đứng đầu châu và đóng trị sở tại Mê Linh (Hạ Lôi, Mê Linh, Hà Nội), dưới cấp quận có Thái thú coi quản việc dân sự và Đô uý coi việc quân sự. Bên dưới cấp huyện, Tây Hán vẫn tiếp tục cho Lạc tướng được trị dân theo chế độ cha truyền con nối.

Từ thế kỷ II TCN cho đến đầu Công nguyên, dưới chính sách cai trị lỏng lẻo của nhà Triệu và nhà Hán, cơ cấu tổ chức truyền thống của Âu Lạc mặc dù chịu sự kiềm chế, kiểm soát của chính quyền đô hộ, song về cơ bản không bị xáo trộn nhiều. Nền văn minh Việt cổ dựa trên mô hình kinh tế văn hoá nông nghiệp lúa nước vẫn tiếp tục được duy trì, phát triển. Đây là nền tảng quan trọng, là sức sống nội tại để người Việt vượt qua những thử thách của các chính sách nô dịch và đồng hoá ngày càng có quy mô, hệ thống của các chính quyền đô hộ trong những giai đoạn sau.

Năm 43, sau khi dẹp tan cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà Đông Hán đã thắt chặt chính sách cai trị tại Giao Chỉ. Về tổ chức bộ máy đô hộ, nhà Đông Hán vẫn đặt chức Thứ sử đứng đầu châu Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Dưới cấp quận, viên quan đứng đầu vẫn là Thái thú. Tuy nhiên, lúc này Thái thú kiêm coi cả việc dân sự và việc quân sự của một quận. Chức Đô uý chuyên trách việc quân sự trước đây không còn nữa. Ngoài ra, để giúp việc cho Thái thú, một số chức quan chuyên trách các phần việc cụ thể cũng được đặt ra.

Đặc biệt, chính quyền Đông Hán là chính quyền đô hộ đầu tiên đã cố sức vươn xuống cai quản cấp huyện. Danh hiệu Lạc tướng bị xoá bỏ, thay vào đó, mỗi huyện do một viên Lệnh trưởng được chính quyền Đông Hán bổ nhiệm trực tiếp cai quản. Để thuận lợi hơn cho Lệnh trưởng cai trị các huyện đồng thời triệt tiêu dần quyền lực của các Lạc tướng cũ của người Việt trên đất bản bộ của mình, nhà Đông Hán đã tiến hành điều chỉnh lại địa giới hành chính, chia tách và đặt thêm một số huyện mới. Mã Viện sau khi đánh bại Trưng Vương đã quyết định chia cắt huyện Tây Vu cũ thành 3 huyện mới là Tây Vu, Phong Khê, Vọng Hải và cắt bớt diện tích huyện Mê Linh…

Ách cai trị thắt chặt của nhà Đông Hán còn thể hiện rõ qua việc tăng cường các chính sách bóc lột, nô dịch và đẩy mạnh hàng loạt biện pháp đồng hoá có hệ thống với quy mô ngày càng lớn. Bên cạnh việc vơ vét tài nguyên, của ngon vật lạ để cống nạp về triều đình trung ương, các quan lại tại Giao Châu còn ra sức bóc lột người dân bằng nhiều loại tô thuế và lao dịch. Nhiều diện tích đất đai của công xã người Việt ở Giao Chỉ đã bị các nhóm địa chủ, quan lại, sĩ phu từ phương Bắc di cư xuống chiếm đoạt để lập trang trại, đồn điền. Chính quyền cai trị nắm độc quyền nhiều ngành sản xuất như rèn sắt, mua bán muối… Nhà Đông Hán cũng ra sức áp dụng luật Hán trên đất Việt, bắt nhân dân ta phải tuân theo lễ giáo phong kiến Hán, đồng thời cố gắng xóa bỏ tận gốc truyền thống “dùng tục cũ mà cai trị” của người Việt.

Cuối thế kỷ II – đầu thế kỷ III, nhà Đông Hán suy yếu rồi sụp đổ, Trung Quốc liên tục trong tình trạng hỗn chiến, loạn lạc. Nhiều triều đại được lập lên, tồn tại trong một thời gian ngắn rồi lại sụp đổ. Chịu tác động của những biến động đó, từ đầu thế kỷ III đến giữa thế kỷ VI, Giao Châu lần lượt phụ thuộc một cách lỏng lẻo vào các thế lực phong kiến Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần (giai đoạn nội thuộc Lục triều).

Năm 264, nhà Ngô cũng tiến hành chia cắt lại địa giới hành chính tại Giao Châu. Ba quận Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm đặt làm Quảng Châu, tách hẳn khỏi Giao Châu trở thành Trung Quốc nội địa. Tại Giao Châu, nhà Ngô lại tiến hành chia đặt nhiều quận, huyện nhỏ. Quận Giao Chỉ được tách ra thành 3 quận nhỏ là Giao Chỉ, Tân Xương, Vũ Bình; quận Cửu Chân được chia thành 2 quận là Cửu Đức và Cửu Chân. Lúc này, trên địa bàn 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam trước đây đã bao gồm 6 quận nhỏ và 45 huyện. Các huyện cũng được chia lại với diện tích nhỏ hơn so với quy mô huyện dưới thời Đông Hán. Các chính quyền đô hộ Lục triều về sau vẫn cơ bản giữ nguyên cách chia đặt quận, huyện như dưới triều Ngô, chỉ tiến hành điều chỉnh nhỏ tại các huyện, như bỏ hoặc đặt thêm một số huyện mới, đổi tên huyện…

Chính sách cai trị thực thi từ thời Đông Hán tiếp tục được các chính quyền đô hộ Lục triều đẩy mạnh. Sản vật quý, của ngon vật lạ từ khắp mọi miền đất nước đều bị vơ vét, thu gom về phương Bắc. Việc thu gom cống phẩm không theo quy định mà được tiến hành hết sức tùy tiện, vô hạn độ càng làm dân ta khốn khổ. Dưới thời Ngô, hàng vạn người Việt còn bị bắt bổ sung vào quân đội để tham gia vào các cuộc hỗn chiến phong kiến, hàng nghìn thợ thủ công tài hoa cũng bị bắt sang xây dựng các công trình tại Trung Quốc.

Hoạt động chiếm đất lập trang trại đồn điền của địa chủ, quan lại gốc Hán ngày càng phổ biến khiến nhiều thành viên công xã người Việt phá sản, không còn tư liệu sản xuất và trở thành nô tì, nông dân lệ thuộc của giới địa chủ quan lại. Chính sách di dân, đồng hoá cũng được đẩy mạnh thông qua biện pháp thâm độc là di dân người Hán sang ở lẫn với người Việt. Quân lính trong các đội quân chinh phạt Giao Châu, tù binh khổ sai người Hán hay đội ngũ quan lại, địa chủ vì loạn lạc đã chạy sang định cư lập nghiệp tại Giao Châu, họ ở lẫn với người Việt, góp phần đẩy mạnh thêm xu hướng Hán hoá đang gia tăng trong lòng cơ cấu kinh tế xã hội cổ truyền của người Việt.

Nhìn chung, từ cuối thời Đông Hán đến Lục triều, mặc dù các chính quyền đô hộ đã ra sức đẩy mạnh hàng loạt chính sách bóc lột, nô dịch và đồng hoá nhân dân ta, song trên thực tế các chính sách này chỉ được thực thi tại các khu vực trung tâm – trị sở cai trị hay những địa điểm đóng quân đồn trú của chính quyền đô hộ. Còn tại các miền xa xôi, các vùng nông thôn, chúng chỉ mới dừng lại ở mức độ “ràng buộc” lỏng lẻo.

Đầu thế kỷ thứ VII, Giao Châu bị nhà Tuỳ cai trị trong một thời gian ngắn và sau đó rơi vào ách thống trị của nhà Đường cho đến đầu thế kỷ thứ X. Bộ máy cai trị nhà Đường có nhiều khác biệt so với các chính quyền đô hộ trước đó. Nhà Đường đặt Giao Châu đại tổng quản phủ để thống suất 10 châu là Giao Châu, Phong Châu, Ái Châu, Tiên Châu, Diên Châu, Tống Châu, Từ Châu, Hiểm Châu, Đạo Châu và Long Châu – tức bao gồm toàn bộ Bắc Bộ hiện nay cho đến Đèo Ngang. Năm 622, Giao Châu đại tổng quản phủ được đổi thành Giao Châu đô hộ phủ, rồi An Nam đô hộ phủ vào năm 679. Đứng đầu An Nam đô hộ phủ là một viên Đô hộ hoặc Kinh lược sứ; đứng đầu các châu là chức quan Thứ sử.

Tiến xa hơn một bước so với các chính quyền đô hộ trước đó, nhà Đường đã tìm mọi cách thiết lập hệ thống cai trị xuống tận các xóm làng của người Việt. Giao Châu đại tổng quản đầu tiên của nhà Đường là Khâu Hoà đã tiến hành cải cách chia đặt các vùng nông thôn thành các tiểu hương, đại hương, tiểu xã, đại xã với quy định cụ thể về số hộ cho từng cấp nhằm phục vụ cho công việc tổ chức quản lý hành chính cấp cơ sở. Đối với miền núi, nhà Đường đặt các châu ki mi do tù trưởng cai quản. Tổng cộng An Nam đô hộ phủ cai quản 41 châu.

Chính quyền đô hộ nhà Đường đã thực thi tại An Nam các hình thức và thủ đoạn cai trị hà khắc, thâm độc. Nhân dân An Nam phải chịu thuế má, lao dịch rất nặng nề. Phương thức bóc lột chủ yếu của nhà Đường tại đây là bóc lột thông qua các hình thức tô thuế. Bên cạnh đó, phương thức bóc lột bằng cống nạp vẫn được duy trì. Các châu quận tại An Nam hàng năm phải tiến cống những sản vật địa phương, lâm thổ sản quý, sản phẩm thủ công… Ngoài việc bị bóc lột tô thuế, chịu lao dịch để khai thác sản vật làm cống phẩm cho triều đình, người dân An Nam còn phải đóng rất nhiều phú liễm khác… khiến tình cảnh của họ đã khốn khổ lại càng cùng quẫn hơn. Hiện tượng bần cùng hoá gia tăng nhanh chóng với quy mô ngày càng lớn. Mâu thuẫn giữa người Việt và chính quyền đô hộ ngày càng gay gắt và đã bùng lên thành nhiều phong trào đấu tranh lớn của dân chúng vào thế kỷ VIII-IX, làm cơ sở đi đến công cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập hoàn toàn vào đầu thế kỷ X.

Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, chính sách cai trị của các triều đại phong kiến và quá trình giao lưu tiếp xúc Việt – Hoa theo cả hai hình thức cưỡng bức và ôn hoà đã tạo nên những chuyển biến lớn trong cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hoá của người Việt.

Khu vực hạ châu thổ sông Hồng đã mở rộng vươn xa về phía biển. Người Việt đã không ngừng khai hoang lập ấp, biến hầu như toàn bộ vùng châu thổ thành đồng ruộng và xóm làng. Diện tích đất canh tác được mở rộng, hệ thống đê điều ngăn lụt đã xuất hiện tại nhiều nơi. Toàn bộ vùng châu thổ đã trở thành những cánh đồng chuyên canh trồng lúa và hoa màu. Từ đầu Công nguyên, đồ sắt đã bắt đầu được sử dụng phổ biến, cày cuốc đã trở thành phương thức canh tác chủ yếu thay cho phương thức “hoả canh”, “thủy nậu”. Kỹ thuật dùng cày và bón phân, thâm canh tăng vụ đã thúc đẩy năng suất cây trồng tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh trồng lúa nước truyền thống, người Việt đã đa dạng hoá cơ cấu cây trồng. Nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển. Cây đay, bông, gai cũng được trồng phổ biến để làm nguyên liệu dệt vải. Nghề làm vườn cũng không ngừng được đẩy mạnh. Chăn nuôi cũng phát triển với nhiều giống gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn, gà, ngỗng, vịt, chim bồ câu…

Quá trình tiếp xúc văn hoá Hoa – Việt lâu dài đã đem đến những thay đổi quan trọng trong ngành thủ công nghiệp. Bên cạnh những nghề truyền thống, người Việt đã phát triển những nghề thủ công học từ người Hán như rèn sắt, làm gốm, làm gạch ngói, làm đường, làm giấy, chế tạo thủy tinh, sản xuất đồ mỹ nghệ, thuộc da, sơn then… Trong từng nghề, người Việt tiếp thu không chỉ kỹ thuật mà cả phong cách nghệ thuật Hán. Đồ gốm làm ra trong thời kỳ này đã thấy xuất hiện nhiều loại hoa văn Hán rất đặc thù. Người Việt từ sản xuất các loại gốm thô đã tiến tới làm ra các sản phẩm gốm tráng men. Nghề làm vật liệu xây dựng đặc biệt phát triển nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng các công trình kiến trúc thành quách, chùa tháp, mộ táng… của chính quyền cai trị. Nghề làm giấy học được từ Trung Quốc cũng có những tiến bộ đáng kể; nghề chế tạo thủy tinh cũng đạt nhiều thành tựu quan trọng với nhiều loại sản phẩm thuỷ tinh có nhiều màu, tinh xảo.

Trong thời kỳ này, chủ yếu có hai luồng giao thương buôn bán là hàng hoá, tiền đồng từ Trung Quốc đổ vào Việt Nam và nguồn nông, lâm, thổ, hải sản, sản phẩm thủ công từ Việt Nam chuyển sang Trung Quốc. Hệ thống thuyền buôn Trung Quốc hoạt động mạnh đã nối kết Việt Nam với nhiều quốc gia Đông Nam Á. Hệ thống giao thông, giao thương đã phát triển, nối liền các địa phương trong một huyện, quận và nối thông cả 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.

Về văn hoá xã hội, dưới tác động của chính sách đồng hoá, các yếu tố văn hóa Hán ngày càng ảnh hưởng sâu đậm tại nước ta. Xen kẽ và hoà cùng với các xóm làng người Việt ở châu thổ sông Hồng, lúc này cũng bắt đầu xuất hiện một số thị trấn, xóm làng của người Hoa và đồn điền, trại ấp của quan lại, địa chủ gốc Hán. Trải qua quá trình cộng sinh lâu đời, nhiều người Hoa đã dần dần Việt hoá và trở thành một bộ phận trong cộng đồng người Việt.

Với việc xoá bỏ chế độ Lạc tướng và cơ cấu bộ lạc, nhiều truyền thống của công xã, bộ lạc người Việt đã bị phá vỡ, phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc hơn với những mối quan hệ xã hội mới ra đời. Tầng lớp hào trưởng người Việt ngày càng có vai trò to lớn trong xã hội, trong khi đó họ lại bị quan lại đô hộ chèn ép và phân biệt đối xử về cả kinh tế và chính trị nên mâu thuẫn giữa họ với chính quyền đô hộ càng ngày càng trở nên sâu sắc. Họ dần trở thành thủ lĩnh đại diện cho phong trào đấu tranh chống lại ách nô dịch và đồng hoá của chính quyền đô hộ.

Văn hoá, luật tục và thiết chế cổ truyền của người Việt dần dần bị xoá bỏ và bị cải tổ theo phong hoá Hán. Thậm chí tên họ người Việt đến đây cũng đã được thống nhất đặt theo cách gọi chung của người Hán. Tuy nhiên nhiều truyền thống vẫn được bảo tồn bền bỉ như tục thờ cúng tổ tiên, anh hùng có công với cộng đồng, tục xăm mình, nhuộm răng đen hay các hình thức tín ngưỡng dân gian khác của cộng đồng cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Quá trình giao lưu tiếp xúc văn hoá mạnh mẽ đã đưa đến sự du nhập của các luồng tư tưởng, tôn giáo lớn như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo… Nho giáo vào Việt Nam cùng với chính sách nô dịch, đồng hoá của chính quyền cai trị nên ít có điều kiện đi sâu vào đời sống dân chúng, mà dường như mới chỉ dừng lại ảnh hưởng ở những tầng lớp trên trong xã hội. Trái lại, Phật giáo ngay khi mới vào Việt Nam đã có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa một cách tự nhiên. Đây là tôn giáo phát triển nhanh nhất và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tại nước ta trong thời Bắc thuộc. Sự phát triển mạnh của tôn giáo này đã dẫn đến sự hình thành trung tâm Phật giáo Dâu – Luy Lâu phồn thịnh ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Một tôn giáo khác cũng theo bước chân người Hán du nhập vào nước ta là Đạo giáo. Khoảng cuối thế kỷ II, Đạo giáo đã chính thức được truyền bá và vượt xa Nho giáo về mức độ ảnh hưởng trong dân chúng. Với tinh thần xuất thế, vô vi, thoát tục, thuận theo tự nhiên, Đạo giáo đã được người Việt đón nhận nhanh chóng. Sự xuất hiện và phát triển đồng thời của nhiều tư tưởng, tôn giáo đã tạo nên sắc thái đa nguyên hỗn hợp trong đời sống văn hoá tín ngưỡng của người Việt.

Như vậy, mặc dù phải chịu đựng ách cai trị tàn bạo và chính sách đồng hoá khốc liệt của các triều đại phong kiến phương Bắc, nhưng người Việt đã biết tiếp thu, học hỏi những yếu tố tiến bộ trong văn hoá Hán, tạo nên những chuyển biến to lớn trong nền kinh tế, xã hội, văn hoá. Lối sống và văn hoá Việt tiếp xúc lâu dài và trực tiếp với văn hoá Hán, đã diễn tiến dưới ảnh hưởng của văn hoá Hán và dần dần biến đổi từ mô hình Đông Sơn cổ truyền sang mô thức mới: Việt – Hán.

Các chính quyền phong kiến phương Bắc, mặc dù đã cố gắng tìm mọi cách để đồng hoá người Việt, song về căn bản trong suốt thời Bắc thuộc vẫn không thể nào trực tiếp với tay tới và can thiệp làm biến đổi được cơ cấu xóm làng cổ truyền của người Việt. Các xóm làng dựa trên cơ sở công xã nông thôn vẫn tồn tại như thế giới riêng của người Việt, là nơi nuôi dưỡng và phát huy những tinh hoa của văn hoá truyền thống làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hoá.

Trong dọc dài 1000 năm Bắc thuộc, hầu hết các vùng miền của lãnh thổ Âu Lạc cũ đều có những chuyển biến sâu sắc, trong đó khu vực nội thành Hà Nội trở thành trung tâm chính trị lớn nhất, sào huyệt của các chính quyền đô hộ Tuỳ – Đường, và vì thế cũng là địa bàn tập hợp, quy tụ sức quật khởi của cả nước, chứng kiến đầy đủ và tiêu biểu nhất các cuộc đấu tranh chống nô dịch, chống đồng hoá, không ngừng không nghỉ, lúc âm thầm, sâu lắng, lúc bùng lên dữ dội như các cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan (713-722), khởi nghĩa Phùng Hưng (791), khởi nghĩa Dương Thanh (819-820), các cuộc đấu tranh giành khôi phục quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương… và cuối cùng là cuộc trung hưng vĩ đại của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền năm 938.

  1. DẤU TÍCH VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA 10 THẾ KỶ CHUYỂN ĐỔI

Chúng tôi vẫn theo quan niệm truyền thống chia toàn bộ thời kỳ Bắc thuộc ra thành 3 giai đoạn là Bắc thuộc lần thứ nhất (từ sau thất bại của An Dương Vương đến khởi nghĩa Hai Bà Trưng và chính quyền Trưng Vương); Bắc thuộc lần thứ hai (từ sau thất bại của Trưng Vương đến khởi nghĩa Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân) và Bắc thuộc lần thứ ba (từ sau thất bại của nhà nước Vạn Xuân đến chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền). Sự phân chia giai đoạn như thế này này là hết sức tương đối và còn phải tiếp tục nghiên cứu, tuy nhiên nó vẫn phản ánh được diễn trình lịch sử – văn hóa của hơn mười thế kỷ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Trong mỗi thời kỳ, chúng tôi chỉ chọn giới thiệu một vài dấu tích văn hóa vật chất tiêu biểu và được xem là đặc trưng cho diễn trình văn hóa của giai đoạn lịch sử đó.

2.1. Bắc thuộc lần thứ nhất: Vai trò chủ đạo của văn hóa Đông Sơn cổ truyền

Âu Lạc rơi vào ách thống trị của Nam Việt trong bối cảnh hóa Đông Sơn đang phát triển đến đỉnh cao, tiêu biểu là trống đồng Cổ Loa (loại I) bên trong có gần 200 hiện vật đồng gồm vũ khí (giáo, lao, mũi tên đồng, rìu xéo), công cụ sản xuất (lưỡi cày đồng, dao nhỏ); khuôn đúc mũi tên 3 cạnh và hàng vạn mũi tên đồng… tìm được trong lòng đất Cổ Loa. Thời kỳ này văn hóa Đông Sơn vẫn phát triển và giữ vai trò chủ đạo trong dòng chẩy văn hóa trên địa bàn Âu Lạc cũ, tuy nhiên cũng đã có sự tiếp xúc với văn hóa Hán và cũng bắt đầu có sự dung hợp văn hóa Hán – Việt.

Trong một số ngôi mộ Đông Sơn, các nhà khảo cổ học đã nhận ra bên cạnh đồ đồng “kiểu Đông Sơn” đã có một ít đồ đồng kiểu Hán. Mộ thuyền Việt Khê (Thủy Nguyên, Hải Phòng) ngoài những đồ đồng dáng vẻ Đông Sơn như trống đồng loại I, rìu lưỡi xéo… là một số đồ đồng Trung Quốc như đỉnh đồng, chuông đồng nhỏ có chữ triện. Đáng chú ý là ở Thiệu Dương, Đông Sơn (Thanh Hóa), Châu Can (Phú Xuyên, Hà Nội) có nhiều ngôi mộ cổ thuộc thời kỳ cuối Tây Hán, đầu Đông Hán được khai quật có nhiều công cụ và vũ khí bằng đồng, gương đồng, tiền Ngũ Thù… về hình loại có nhiều nét tương tự như các đồ đồng phát hiện được trong các mộ cổ quách gỗ tại Quảng Châu (Trung Quốc). Bên cạnh đồ đồng ở các di chỉ Đông Sơn và Thiệu Dương, khảo cổ học còn tìm được một số đồ sắt như rìu, dao, kiếm. Những đồ sắt này có thể do người Trung Quốc mang sang, do mua bán, trao đổi, nhưng chắc chắn không ít trong đó là được chế tạo tại chỗ mà chứng tích còn có thể tìm thấy ở các địa điểm thuộc văn hóa Đường Cồ như Gò Chiền Vậy, Cổ Loa… Kỹ thuật rèn đúc sắt bắt đầu phát triển đánh dấu một bước chuyển biến rất quan trọng của nền văn hóa vật chất và kinh tế vùng Giao Chỉ, Cửu Chân.

Tư liệu khảo cổ học cho phép hình dung trong hơn hai thế kỷ Bắc thuộc lần thứ nhất trên đất Âu Lạc cũ, bên cạnh những xóm làng của người Việt là những nhà sàn dựng dọc theo bờ một con sông hay cụm lại ở khu vực ngã ba sông cổ còn có thành quách với nhà cửa, giếng nước, bếp lò, chuồng trại của người Hán. Bên cạnh những mộ đất, mộ quan tài hình thuyền với những đồ tùy táng thuộc loại hình văn hóa Đông Sơn và những mộ đất, mộ quách gỗ với những hiện vật chôn theo thuộc văn hóa Hán hoặc mang những nét đặc trưng của văn hóa phương Bắc. Các công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí trong các mộ Việt như đồ gốm Đường Cồ, Đông Sơn, rìu lưỡi xéo, trống đồng và trong các mộ Hán như đỉnh, bình miệng vuông, kiếm, dao, sắt, cốc đốt trầm, móc đai lưng, gương đồng, các hiện vật thuộc văn hóa Hán được chôn cùng với các hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn trong mộ Việt và các hiện vật Đông Sơn hay mang kiểu dáng đặc trưng Đông Sơn trong mộ Hán… không chỉ xác nhận sự tồn tại song song của hai lối sống, hai phương thức sinh hoạt, mà bước đầu đã có sự thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau giữa hai khu vực Việt – Hán. Như thế lúc này trên cơ tầng văn hóa Việt đã vận hành một cơ chế Hán, trong đó lối sống và văn hóa Việt do tiếp xúc lâu dài và trực tiếp với văn hóa Hán đã diễn tiến dưới ảnh hưởng của văn hóa Hán và đang biến đổi từ mô hình Đông Sơn cổ truyền sang mô thức mới Việt – Hán.

Trong khi đó trên địa bàn duyên hải miền Trung từ Quảng Bình kéo vào đến Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, khảo cổ học cũng phát hiện được một số hiện vật như đồ sắt mô phỏng đồ sắt, đồ đồng Tây Hán, tiền Ngũ Thù ở Hội An, Duy Xuyên, gương đồng và bộ đồ nghi lễ bằng đồng Tây Hán ở Quế Sơn, Duy Xuyên… Đây là chính là hình ảnh của sự tiếp xúc, giao lưu, ảnh hưởng văn hóa Sa Huỳnh – Hán trong những thế kỷ trước, sau Công nguyên[1]. Tuy nhiên sự ảnh hưởng này còn hết sức mờ nhạt, thậm chí còn mờ nhạt hơn khu vực phía Bắc, vì trong thực tế từ sau năm 111 trước Công nguyên cả 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam đều bị đặt dưới ách đô hộ của nhà Tây Hán, nhưng Nhật Nam xa xôi và cách trở hơn nên mức độ ảnh hưởng của văn hóa Hán không ngang bằng khu vực các quận Giao Chỉ và Cửu Chân[2].

Nhìn một cách tổng thể thời kỳ từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên cho đến đầu Công nguyên vẫn là thời kỳ tồn tại của cơ cấu văn minh Đông Sơn với mô thức kinh tế-văn hóa nông nghiệp lúa nước cổ truyền sơ kỳ thời đại đồ Sắt Việt Nam. Nền văn minh Việt cổ vẫn thể hiện đầy đủ sức sống mãnh liệt của nó và là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cuộc đồng khởi toàn dân do Hai Bà Trưng lãnh đạo vào mùa xuân năm 40, kết thúc 2 thế kỷ đô hộ của phương Bắc, “rửa sạch nước thù”, “nối lại nghiệp xưa họ Hùng”.

Tuy nhiên, không đầy 3 năm sau, năm 43, trước sức tấn công của quân đội nhà Hán do Mã Viện chỉ huy, Hai Bà Trưng thất thủ, đất nước lại rơi vào ách cai trị của Đông Hán, mở đầu giai đọan Bắc thuộc lần thứ hai.

2.2. Bắc thuộc lần thứ hai: Mô thức văn hóa Việt – Hán

Sau khi đánh bại khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Mã Viện tiến hành chia cắt lại địa giới hành chính một số huyện, thay thế hoàn toàn tầng lớp Lạc tướng, cử các Lệnh trưởng thay mặt cho chính quyền đô hộ trực tiếp đứng đầu cai quản các huyện. Tại mỗi huyện, hệ thống thành luỹ được xây dựng làm nơi đóng trị sở của Lệnh trưởng. Huyện thành Phong Khê (Kiển Thành) được xây dựng ngay trên thành đô của An Dương Vương, mà nhiều người tin đấy chính là vòng thành Nội của thành Cổ Loa hiện nay[3]. Điều có thể dễ dàng nhận thấy là cấu trúc của vòng thành này giống thành Trung Quốc, chu vi 1.650 m, với nhiều hoả hồi cân xứng, có tử giác, khác với cấu trúc uốn lượn tự do của hai vòng thành Trung và thành Ngoại. Tại khu vực bên trong thành Nội đã khai quật được rất nhiều di vật đặc trưng văn hoá Hán như giếng gạch, tiền Ngũ thù, đồ gốm trang trí hoa văn ô vuông, trám lồng, văn thừng, xương cá… được coi là các loại hoa văn điển hình của thời Đông Hán. Ở Cổ Loa và khu vực lân cận khảo cổ học đã khai quật được một số lượng lớn mộ gạch Hán[4]. Sự xuất hiện những ngôi mộ gạch ở khu thành này chứng tỏ từ thời Đông Hán, quan lại người Hán đã sống và trực tiếp cai quản vùng đất bản bộ của vua Thục xưa.

Quận trị Giao Chỉ vẫn đặt tại Luy Lâu. Thành Luy Lâu được khởi đắp từ thời Hán, nhưng tòa thành 2 vòng khép kín (thành ngoài hình chữ nhật, chu vi 1848 m; thành trong hình vuông chu vi 454 m) tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) còn lại đến ngày nay chủ yếu là dấu vết thời kỳ này. Đây là tòa thành quy mô và kiên cố nhất trong quận. Đô thị Luy Lâu tiếp tục phát triển không chỉ là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, mà còn là trung tâm văn hóa lớn nhất.

Thái thú Sĩ Nhiếp “có học vấn sâu rộng lại thông hiểu về chính trị” mở trường dạy học và đẩy mạnh truyền bá Nho giáo ở Luy Lâu. Ngôi trường dạy học của ông ở trong thành Luy Lâu sau này trở thành đền thờ Nam Giao học tổ (ông tổ Nho học của nước Nam). Bên cạnh Nho giáo, Đạo giáo từ Trung Quốc (mà chủ yếu là đạo Dân gian – đạo Phù thủy) cũng được truyền sang khu vực Luy Lâu từ khoảng cuối thế kỷ thứ II. Đặc biệt Phật giáo từ Ấn Độ được truyền bá trực tiếp vào Luy Lâu (sau đó lại từ Trung Quốc truyền dội sang vào những thế kỷ đầu sau Công nguyên). Ngay từ khi mới vào Luy Lâu, Phật giáo đã có sự kết hợp một cách tự nhiên và hài hòa với tín ngưỡng dân gian của cư dân bản địa, hình thành Phật tổ Man Nương chùa Tổ (làng Mãn Xá) và Tứ pháp: Pháp Vân (chùa Bà Dâu), Pháp Vũ (chùa Bà Đậu), Pháp Lôi (chùa Bà Giàn) và Pháp Điện (chùa Bà Tướng) nay vẫn còn tại khu vực xung quanh thành Luy Lâu.

Nhìn chung dù là Nho, Phật hay Đạo được truyền vào Luy Lâu bằng con đường nào, trong hoàn cảnh nào thì khuynh hướng thích nghi và hòa nhập với tín ngưỡng dân gian cổ truyền của người Việt vẫn là khuynh hướng chủ đạo. Khuynh hướng này đã tạo nên săc thái đa nguyên và hỗn hợp trong cuộc sống tôn giáo và tín ngưỡng ở Luy Lâu và ở Giao Châu. Đây cũng chính là hình ảnh thể hiện sự dung hợp và xác lập mô thức Việt – Hán.

Suốt mấy thế kỷ liên tục tính từ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, hầu như­ không có thế kỷ nào là không có khởi nghĩa của nhân dân. Phong trào đấu tranh của dân chúng Giao Châu, nhìn một cách tổng thể, đang chuyển dần vai trò lãnh đạo từ các quý tộc bộ lạc cũ sang các hào tr­ưởng. Vào giữa thế kỷ thứ VI, phong trào đã tiến lên đỉnh cao, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập Nhà n­ước Vạn Xuân.

Lý Bí xuất thân từ một hào tr­ưởng địa phư­ơng ở huyện Thái Bình, trong một gia đình tổ tiên người gốc phương Bắc, nhưng qua nhiều đời định cư ở phương Nam và trở thành người Nam. Ông là người có tài văn võ, đã từng nhận một chức quan nhỏ của nhà Lương ở Cửu Đức. Bất bình với chính quyền đô hộ, Lý Bí trở về quê phối hợp với Tinh Thiều (đại diện của trí thức bản địa) m­ưu tính việc khởi nghĩa. Mùa xuân năm 542, cuộc khởi nghĩa toàn dân do Lý Bí lãnh đạo đã bùng nổ và không đầy 3 tháng sau đã giành được thắng lợi. Lý Bí còn tổ chức lực lượng đánh tan các cuộc tấn công của quân Lương và quân Lâm Ấp, nắm quyền làm chủ đất nước. Vào đầu năm 544, ông tuyên bố dựng n­ước Vạn Xuân, lên ngôi Hoàng đế (Nam Việt Đế), phế bỏ niên hiệu của nhà Lư­ơng, đặt niên hiệu mới là Thiên Đức, tự coi mình ngang hàng với các Hoàng đế phương Bắc. Ông là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nhận ra vị trí trung tâm bờ cõi của vùng đất Hà Nội và chọn làm đất đóng đô. Tại đây ông cho dựng điện Vạn Thọ, xây đài Vạn Xuân làm nơi văn võ bá quan triều hội[5] và chùa Khai Quốc là trung tâm Phật giáo quốc gia, bệ đỡ tư tưởng của Vương triều[6].

Đây là lần đầu tiên ng­ười Việt phương Nam tự xây dựng cho mình một cơ cấu nhà nư­ớc mới theo chế độ tập quyền trung ương. Tuy đang còn là một sự thể nghiệm, nhưng triều đình Vạn Xuân là thành quả của một nửa thiên niên kỷ dung hợp văn hóa Việt – Hán, đã đánh dấu một bước trưởng thành mới của cuộc đấu tranh chống nô dịch, chống đồng hóa.

2.3. Bắc thuộc lần thứ ba: Phục hưng văn hóa Việt

Năm 602, nhà nước Vạn Xuân bị Lưu Phương nhà Tùy đánh bại. Năm 607, nhà Tùy tiến hành chia đặt lại quận huyện và chuyển trị sở quận Giao Chỉ về Tống Bình. Từ đây, miền đất trung tâm Hà Nội chính thức trở thành thủ phủ của chính quyền đô hộ phương Bắc. Hơn một thập kỷ sau, nhà Đường thay thế nhà Tùy, lập Giao Châu đô hộ phủ rồi sau đó đổi thành An Nam đô hộ phủ. Trị sở của An Nam đô hộ phủ vẫn đóng tại Tống Bình.

Nhà Đường đã liên tiếp cho xây dựng tại Tống Bình nhiều thành luỹ để làm lỵ sở của chính quyền cai trị. Toà thành đầu tiên do Khâu Hoà xây dựng với tên gọi Tử thành. Năm 767, Trương Bá Nghi cho đắp La Thành là toà thành quân sự kiên cố có quy mô lớn đầu tiên được xây dựng tại trung tâm nội thành Hà Nội. Trong những năm 791 và 801, Triệu Xương, Bùi Thái đều tiến hành sửa đắp La Thành. Năm 808, Trương Châu sửa lại thành Đại La và gọi tên là An Nam La Thành. Năm 824, Lý Nguyên Hỷ cho đắp một thành mới bên bờ sông Tô Lịch, cũng gọi là La Thành. Các năm 843, 858 Vũ Hồn và Vương Thức cho sửa đắp lại phủ thành. Năm 866, Cao Biền tổ chức đắp lại La Thành chu vi 1980 trượng 5 thước, cao 2 trượng 6 thước, chân rộng 2 trượng 6 thước, xây nữ tường cao 5 thước 5 tấc, dựng 55 địch lâu, 5 môn lâu, 6 ủng môn, đào 3 đường nước, đắp 34 đạp đạo, ngoài đắp đê bao quanh dài 2125 trượng 8 thước, cao 1 trượng 5 thước, chân rộng 3 trượng, dựng hơn 5.000 gian nhà.

Như vậy, có nhiều toà thành khác nhau của An Nam đô hộ phủ thời Đường cùng được gọi là La Thành hay thành Đại La. Những toà thành này vào các đời sau đã nhiều lần được cải tạo, thay đổi nên hầu như không còn để lại dấu tích trên mặt đất khiến cho các nhà nghiên cứu thật khó có thể xác định được số lượng cũng như cấu tạo của hệ thống thành luỹ đã từng được dựng lên trong thời thuộc Đường tại trung tâm Hà Nội. Những dấu tích mới phát hiện tại 18 Hoàng Diệu và khu khuôn viên xây dựng Hội trường Ba Đình từ năm 2002 đến nay không chỉ có giá trị kiểm chứng các nguồn tư liệu thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam mà còn cho phép có những nhìn nhận cụ thể, chính xác hình ảnh của khu trung tâm Đại La Thành. Đó là những móng trụ kiến trúc, bó nền nhà, nhiều viên gạch có in nổi ba chữ “Giang Tây Quân”, dấu tích kiến trúc, nhà cửa, giếng nước, cống thoát nước, một số đồ gốm sứ Việt Nam, Trung Quốc và Tây Á… có niên đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX nằm ở lớp cuối cùng của di tích.

Trong hơn 3 thế kỷ thuộc Đường, chính quyền đô hộ phải liên tiếp cho xây dựng, gia cố thành luỹ vì chúng luôn phải đối phó với những cuộc nổi dậy quy mô ngày càng lớn của dân chúng.

Mai Thúc Loan khởi nghĩa ở Hoan Châu xây dựng lũy Vạn An dọc theo bờ sông Lam rồi kéo đại quân đánh thẳng vào sào huyệt của chính quyền đô hộ ở thành Tống Bình.

Phùng Hưng là người hào trưởng đất Đường Lâm nổi dậy làm chủ quê hương rồi tiến quân bao vây, đánh chiếm phủ thành Tống Bình, tổ chức việc cai trị. Khu vực nội thành Hà Nội và phụ cận có đền thờ và lăng Phùng Hưng ở Triều Khúc, Phùng Khoang, Nhân Chính (quận Thanh Xuân), Quảng Bá (quận Tây Hồ), Kim Mã, Hào Nam (quận Đống Đa) là phản ánh hoạt động của Phùng Hưng ở đây. Làng Đường Lâm vốn có truyền thống rất lâu đời, nhưng chỉ đến Phùng Hưng mới thực sự trở thành làng quê tiêu biểu nhất của lịch sử chống Bắc thuộc, chống đồng hóa của Việt Nam.

Đầu thế kỷ thứ X, nhân cơ hội chính quyền trung ương nhà Đ­ường đang đứng tr­ước nguy cơ sụp đổ, Khúc Thừa Dụ, hào trưởng đất Hồng Châu nổi dậy đánh chiếm La Thành, lật đổ chính quyền đô hộ của nhà Đường, xây dựng chính quyền tự chủ.

Năm 907 Khúc Thừa Dụ qua đời, con trai cả là Khúc Hạo nối nghiệp, tiếp tục đóng đô ở La Thành, thi hành nhiều cải cách quan trọng để cải thiện đời sống nhân dân và chăm lo xây dựng nền độc lập dân tộc. Khúc Hạo qua đời, con trai là Khúc Thừa Mỹ lên thay đã hoàn toàn thất bại trước cuộc tấn công tái xâm lược của nhà Nam Hán. Đất nước lại bị rơi vào ách đô hộ của phương Bắc.

Năm 931, Dư­ơng Đình Nghệ, tư­ớng cũ của họ Khúc, đem quân từ vùng châu Ái (Thanh Hóa) tiến ra đánh chiếm thành Đại La và đánh tan đoàn quân tiếp viện của Nam Hán, một lần nữa giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của phương Bắc. Dư­ơng Đình Nghệ vẫn đóng đô ở thành Đại La, cắt đặt tướng lĩnh nắm giữ các vùng trọng yếu, chăm lo củng cố chính quyền, tiếp tục công cuộc tự chủ của họ Khúc.

Đầu năm 937, ông bị viên thuộc tư­ớng phản bội là Kiều Công Tiễn giết chết. Ở khắp mọi nơi, dân chúng dư­ới sự lãnh đạo của các t­ướng lĩnh cũ của D­ương Đình Nghệ đã liên tục nổi dậy chống lại Kiều Công Tiễn và tập hợp xung quanh Ngô Quyền.

Cuối tháng 10 năm 938, nhận thấy nguy cơ xâm lư­ợc của quân Nam Hán đã đến gần, Ngô Quyền từ vùng châu Ái đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn, củng cố thành Đại La và kéo đại quân ra cửa biển Bạch Đằng chuẩn bị đón đánh quân Nam Hán. Cuối tháng 12 năm 938, đoàn binh thuyền của quân Nam Hán do Hoằng Tháo chỉ huy từ Quảng Đông vư­ợt biển tiến vào cửa biển Bạch Đằng. Ngô Quyền cho quân khiêu chiến để dụ quân Nam Hán tiến nhanh vào phía trong hàng cọc đã được bố trí sẵn. “Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nư­ớc triều rút, cọc nhô lên, Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu”[7]. Quân Nam Hán ở trư­ớc mặt, sau lư­ng, d­ưới nước, trên bờ đều bị đánh quyết liệt. Số lớn thuyền chiến của địch đã bị cọc sắt đâm thủng, bị va vào nhau mà chìm đắm. Chủ tư­ớng địch là Hoằng Tháo đã bị bắt sống và giết tại trận.

Trong khí thế chiến thắng, đầu mùa xuân năm sau, năm 939, Ngô Quyền xư­ng Vư­ơng, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) khẳng định tiếp tục sự nghiệp dựng nước và giữ nư­ớc đời Hùng Vư­ơng – An Dư­ơng V­ương. Ông kiên quyết cắt đứt mọi quan hệ lệ thuộc đối với n­ước ngoài, xây dựng một vư­ơng quốc độc lập đàng hoàng.

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là một vũ công hiển hách, đời đời bất diệt, một cột mốc bản lề chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị hơn 1000 năm của phong kiến phư­ơng Bắc, mở ra thời kỳ độc lập thực sự và lâu dài của Việt Nam. Nhà yêu nước Phan Bội Châu đầu thế kỷ XX đã gọi Ngô Quyền là vị Tổ Trung hưng của nước Việt Nam ta, chỉ đứng sau Thủy tổ dựng nước là Hùng Vương. Khẳng định này đồng nghĩa với việc xác nhận sự nghiệp của Ngô Quyền là kết tinh sức mạnh phục hưng kỳ diệu của văn hóa Việt.

 

[1] Lâm Mỹ Dung, Yếu tố Hán ở miền Trung Việt Nam những thế kỷ trước, sau Công nguyên trongMột chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995-2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 59-75.

[2] Cuộc đấu tranh chống Hán hóa ở đây diễn ra chậm hơn ở khu vực phía Bắc, nhưng từ đầu thế kỷ thứ II cũng đã phát triển mạnh, làm cơ sở cho sự ra đời của nhà nước Lâm Ấp độc lập ở huyện Tượng Lâm vào thập kỷ cuối của thế kỷ thứ II. Chính quyền đô hộ phương Bắc nhièu lần tổ chức lực lượng đàn áp, nhưng Lâm Ấp đã biết dựa vào địa thế xa xôi, hiểm trở này mà đã bảo vệ thành công nhà nước non trẻ của cư dân và văn hóa Sa Huỳnh, là tiền thân của vương quốc Chămpa  độc lập sau này.

[3]Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề Kiển Thành, song phần lớn các ý kiến đều cho rằng toà thành do Mã Viện xây dựng ở vào vị trí Loa Thành cũ của An Dương Vương. Trương Hoàng Châu trong bài Chung quanh vấn đề toà thành cổ trên đất Cổ Loa, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 128, năm 1969 viết: “Toà thành đất hiện nay tồn tại ở khu vực Cổ Loa được xây dựng bắt đầu từ thời Mã Viện sang nước ta”; Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời lại cho rằng Mã Viện bị quân Hai Bà Trưng tại thành Cổ Loa chống cự quyết liệt nên sau khi chiến thắng đã chia nhỏ huyện Tây Vu, đồng thời nhân thành cũ của An Dương Vương mà xây thêm và đặt tên mới để giữ huyện Phong Khê mới lập; Đỗ Văn Ninh trong Thành cổ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1983 khẳng định: “Vòng thành trong Cổ Loa là kiến trúc thuộc Hán, nói rõ hơn đây là Kiển Thành do Mã Viện cho đắp sau khi lập huyện Phong Khê và cũng là trị sở huyện Phong Khê”.

[4] Những ngôi mộ này có niên đại từ Đông Hán đến Đường như mộ gạch ở cánh đồng Trung Thôn (Tiên Hội) khoảng thế kỷ I-III, mộ gạch tại gò Đống Mây, Đống Trọc, Đống Trong Đường (Dục Tú) khoảng từ thế kỷ III-VI; mộ gạch tại Bãi Mèn niên đại Đông Hán; mộ gạch tại Mạch Tràng có những viên gạch ghi niên đại Vĩnh Nguyên thập nhất niên trị thái (năm 99) hay Vĩnh Sơ ngũ niên trung trị đại hình chuyên (năm 111); mộ gạch tại Trại Xóm Vang (Cổ Loa) khoảng thế kỷ II-III…

[5] Dựa vào những kết quả khảo sát và nghiên cứu mới hiện nay, chúng tôi cho rằng hoàn toàn có cơ sở để xác định kinh đô Vạn Xuân của Lý Nam Đế được xây dựng trên vùng đất Hà Nội cổ.

[6] Chùa Khai Quốc do vua Lý Nam Đế cho xây dựng ở khu vực thôn Yên Trì, phía bãi sông Hồng, ngoài đê Yên Phụ, Hà Nội. Chùa sau này trở thành trung tâm Phật giáo và Phật học lớn, có nhiều nhà sư nổi tiếng trụ trì. Năm 1615, vì bãi sông Hồng sụt lở, dân phường Yên Hoa (Yên Phụ) dời chùa vào phía trong đê, tức là chùa Trấn Quốc hiện nay.

[7] Đại Việt sử ký toàn th­ư, Q. V-19b-20a, bản dịch Sđd, T. I, tr. 203-204.

Nguồn: http://chuyencuachi.blogspot.com/2012/03/bac-thuoc-va-chong-bac-thuoc-nhung-dau.html

Đồ gốm trong văn hóa Óc Eo

Đồ gốm trong văn hóa Óc Eo

Văn hóa Óc Eo – một nền văn hóa cổ ở Nam Bộ hình thành và phát triển từ thế kỷ I đến thế kỷ VII và sau đó được bảo lưu như một truyền thống ở nơi đây. Dấu tích cư trú của cư dân cổ được tìm thấy khắp lưu vực các con sông Cửu Long, Vàm cỏ, Đồng Nai. Di vật phổ biến trong các di tích khảo cổ học văn hóa Óc Eo từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn là đồ gốm. Không có vẻ rực rỡ tinh xảo như các loại đồ trang sức, không có vẻ hoành tráng mà diễm lệ như những pho tượng thờ bằng đá, đồ gốm trong văn hóa Oc Eo mang một vẻ đẹp giản dị nhưng không kém phần độc đáo vì đã thể hiện đặc trưng văn hóa tộc người và phản ánh nguồn gốc bản địa của nền văn hóa này.

Đồ gốm trong văn hóa Óc Eo

Đồ gốm trong văn hóa Óc Eo có thể chia làm 3 loại hình chính:

Vật liệu xây dựng – kiến trúc (gạch, ngói, điêu khắc, phù điêu trang trí…), công cụ sản xuất (bàn xoa, chì lưới, dọi se sợi, nồi nấu kim loại…), đồ gia dụng (bếp lò, đèn, hũ, bình, nồi lớn nhỏ), đồ thờ cúng (bình Kendi, ly chân cao…). Về chất liệu, gốm Óc Eo hầu hết là đất nung xương gốm khá mịn, gốm màu đỏ hay nâu hồng hoặc xám đen, trừ các chén nhỏ và nồi nấu kim loại cứng chắc như sành do xương gốm pha nhiều sạn sỏi nên có màu xám. Ở đây chỉ xin được giới thiệu một vài loại di vật gốm phản ánh nhiều mặt đời sống của cư dân cổ ở Nam bộ – chủ nhân của nhiều công trình kiến trúc đền tháp đồ sộ mà nay chỉ còn là phế tích.

Phổ biến nhất là các bàn xoa – một dụng cụ của kỹ thuật làm gốm cổ. Dụng cụ hình nấm làm bằng chất liệu sét lọc kỹ khá mịn, màu trắng ngà hay hồng nhạt, cầm không có cảm giác chắc nặng, tay cầm hình trụ hơi thon ở giữa tạo núm cầm ở đầu, một số tiêu bản có những đường gờ ren để cầm cho chắc chắn. Mặt xoa hình tròn cong lồi có hoa văn khắc chìm khá sắc nét kiểu chân chim, dấu nhân haỳ những đường tròn đồng tâm cách đều nhau từ 1mm đến 2-3mm, cũng có tiêu bản mặt để trơn láng. Một lỗ nhỏ 0,5 cm xuyên dọc chính giữa tay cầm đến tâm mặt xoa. Công cụ này được sử dụng để “xoa” làm nhẵn láng bề mặt đồ gốm vì những đường “hoa văn” rất nhỏ có tác dụng khi xoa sẽ làm bề mặt đồ gốm nhẵn đều, mặt cong lồi và lỗ xuyên tâm làm giảm ma sát của mặt tiếp xúc, động tác nhẹ nhàng và nhanh hơn. Những tiêu bản mặt xoa không có hoa văn có chức năng làm nhẵn bóng áo gốm, tăng thêm vẻ đẹp cho sản phẩm. Kích thước phổ biến là chiều cao và đường kính mặt xoa xấp xỉ nhau: 6-8cm. Cá biệt có tiêu bản lớn khoảng 10-12cm nhưng chất liệu cứng chắc gần như sành, màu đỏ nâu hoặc xám đen, không có hoa văn, đó là các bàn dập làm các loại đồ gốm lớn như lu, khạp, nồi lớn… cho xương gốm chắc và mỏng đều. Loại dụng cụ này đến nay vẫn còn được sử dụng tại các lò sản xuất lu gốm ở Tân Vạn (Biên Hòa, Đồng Nai) và nhiều nơi khác.

Bếp lò (cà ràng): Đây là di vật tiêu biểu được tìm thấy trong nhiều di tích. Tuy chỉ còn các mảnh vỡ nhưng có thể nhận dạng di vật này qua sự so sánh với loại bếp lò bằng gốm hiện nay vẫn phổ biến ở Nam bộ. Di vật này có một số kiểu dáng:

– Ở giai đoạn sớm: Bếp lò hình chảo đáy rộng và khá bằng, trong lòng có 3 giá kê (hình trụ đầu hơi nhọn như sừng bò).

– Ở giai đoạn muộn: Bếp lò hình khay thắt ở giữa giống số 8. Có chân đế và thành lò cao, từ thành lò nhô ra 3 giá kê. Phần ngoài có thể để than tro nướng thức ăn.

Bếp lò đất nung – Văn hóa Óc Eo

Dù hình thức nào thì bếp lò gốm đều giống nhau ở chỗ cấu tạo phù hợp để có thể đặt trên nhà sàn hay ghe xuồng mà vẫn an toàn, lại có thể di chuyển dễ dàng. Điều đặc biệt là loại bếp lò gốm này đã được tìm thấy rất nhiều trong các di tích thuộc văn hóa Đồng Nai thời tiền sử (niên đại từ 3000 – 2000 năm cách ngày nay) vừa là vật dụng tìm thấy tại nơi cư trú, vừa là đồ tùy táng trong các ngôi mộ. Như vậy loại bếp lò gốm (cà ràng) này đã tồn tại và phổ biến trong đời sống cư dân vùng sông nước, cư trú trên nhà sàn hay ghe xuồng, suốt từ thời xa xưa. Vì vậy, việc gọi nó là “cà ràng” như cách gọi của người Khmer Nam bộ không có nghĩa là nó là di vật của người Khmer, mà chỉ là sự ghi nhận tên gọi hiện nay của loại bếp lò này.Các loại nắp vung bằng gốm khá đặc biệt vì là nắp đậy ngửa (núm cầm trên mặt lõm của nắp). Loại nắp này đặc biệt thích hợp đậy nồi, bình hũ sử dụng trên ghe xuồng, khi di chuyển tròng trành không bị rơi bể.

Đèn gốm: làm bằng chất đất chắc nặng, đế hình đĩa có vành và đường kình lớn hơn đĩa đèn để hứng tàn bấc. Chân cao để tiện cầm nắm và tạo độ cao cho đèn. Phía trên đặt một đĩa đèn đường kính nhỏ hơn đế, dĩa này có chỗ lõm để gác bấc đèn. Khi cần thì có thể đặt chiếc đĩa đèn này trên sàn nhà, sàn ghe xuồng hay trên bàn cũng được.

Đồ dùng nghi lễ tôn giáo:

Bình kiểu Kendi là loại bình có vòi thân hình cầu, phình tròn ở giữa, thu nhỏ ở cổ và đáy bình. Miệng bình loe cong. Kích thước của bình khá lớn, nhiều chiếc có hoa văn khắc vạch tam giác hay sóng nước ở thân. Có chiếc tô màu đỏ (thổ hoàng) hay tô màu đen chì rất đẹp. Điều đáng lưu ý là những bình bình Kendi thường được tìm thấy trong các phế tích đền tháp, hầu hết bị gãy vòi, dấu vết cho thấy sự “cố ý” đập gãy rời vòi khỏi thân bình. Vì vậy nhiều khả năng cho biết đây là di vật dùng trong các nghi lễ tôn giáo Bàlamôn, những chiếc vòi bình mang bóng dáng ngẫu tượng Linga – tượng trưng cho thần Siva.

Được tìm thấy cùng với những chiếc bình là nhiều chiếc ly chân cao trông giống ly uống sâm-banh, kiểu dáng khá “hiện đại”. Ngoài ra còn có những chiếc nắp gốm hình tháp có trổ lỗ, dùng để đậy bình “xông hương”.

Nắp gốm – văn hóa Óc Eo

Những loại đồ gốm tiêu biểu trên đây của văn hóa Óc Eo chỉ là một phần nhỏ trong kho tàng đồ gốm của văn hóa này. Di vật gốm cổ cho ta nhận biết về đời sống của chủ nhân văn hóa Óc Eo, những yếu tố văn hóa bản địa Đồng Nai – Cửu Long và những yếu tố văn hóa ngoại sinh từ vùng biển và hải đảo mang đến. Tuy nhiên, cũng như “số phận” của những di vật gốm – đất nung trong nhiều nền văn hóa cổ, dù mang vẻ đẹp bình dị mà sâu lắng hồn đất, cổ vật gốm của văn hóa Óc Eo chưa được nhiều người dành sự quan tâm tìm hiểu như đối với cổ vật bằng đá và kim loại quý.

Nguồn: https://khanhhoathuynga.wordpress.com/2009/05/11/d%E1%BB%93-g%E1%BB%91m-trong-van-hoa-oc-eo/

Vài nét về nền Văn hóa Óc Eo

Là tên một gò đất trên cánh đồng phía Đông Nam núi Ba Thê, Óc Eo đi vào lịch sử khảo cổ học Việt Nam như một vùng đất văn hóa khảo cổ đầy hấp dẫn. Văn hóa Óc Eo hình thành và phát triển từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau Công nguyên.

Đây là một nền văn hóa lớn trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với đất nước – con người ở vùng đồng bằng – châu thổ hạ lưu sông Mê công; đồng thời, nó còn có quan hệ mật thiết với lịch sử Đông Nam Á thời cổ.

Núi Ba Thê (An Giang)

Vùng này phân bố trên một khu vực rất rộng ở miền châu thổ sông Cửu Long, trong miền đất trũng Tây sông Hậu bao gồm nhiều vùng sinh thái khác nhau của các tỉnh An Giang (Óc Eo – Ba Thê), Kiên Giang (Đá Nổi, Nền Chùa, Tân Long), Đồng Tháp (vùng Đồng Tháp Mười), vùng ven biển Tây Nam (U Minh, Năm Căn) kéo đến vùng rừng Sác duyên hải (Cần Giờ, Giồng Am…) và vươn ra tận Biển Đông (khu vực từ cửa sông Tiền đến Cà Mau). Ngoài ra, khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích, di vật thuộc văn hóa Óc Eo ở các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, một phần Long An, Bình Thuận và thành phố Hồ Chí Minh.

Trên cơ sở các cuộc khai quật vào năm 1944, Louis Malleret cho rằng cánh đồng Óc Eo là một thành thị cổ và đặt tên là thành thị Óc Eo hay thị cảng Óc Eo, có diện tích rộng tới 450 ha với một tiền cảng có tên là Tà Keo, cách Óc Eo 12 km về phía Tây Nam. Vùng này không chỉ có hình ảnh của một đô thị quy củ mà còn có nhiều dấu tích của một trung tâm tôn giáo – văn hóa lớn với 3 cụm quần thể kiến trúc: Vùng Linh Sơn Tự, vùng Đông Bắc núi Ba Thê và vùng Giồng Cát, Giồng Xoài.

 Khu di chỉ Óc Eo

Trong các cuộc khảo sát và khai quật đã tìm thấy ở các di chỉ thuộc văn hóa Óc Eo các loại tượng to nhỏ, nhẫn, hoa tai, hạt đá quý, mã não, hạt thủy tinh, con dấu, bùa đeo, công cụ bằng đồng và bằng đá; các loại hiện vật bằng đất nung như dọi xe sợi, bếp lò, đĩa đèn, chậu, nồi, vò v.v…

Các sưu tập hiện vật của Óc Eo thể hiện tính phong phú và đa dạng của nền văn hóa này; tính bản địa, sự giao thoa và đan xen giữa các nền văn hóa trong khu vực cũng như với các vùng khác. Sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở Óc Eo rất đậm nét, biểu hiện qua các đề tài trang trí, qua kiểu mũ hay tư thế ngồi của các pho tượng, qua con dấu với dòng chữ viết bằng các kiểu văn tự Ấn Độ v.v…

Cổ vật Óc Eo

Tính bản địa của nền văn hóa này được thể hiện qua đồ gốm, qua nồi nấu kim loại, khuôn đúc và các công cụ chế tác.

Nguồn gốc xuất xứ của văn hóa Óc Eo bắt nguồn từ trong văn hóa Đồng Nai. Mối liên hệ tiếp nối văn hóa Đồng Nai – Óc Eo được minh chứng bởi sự hiện diện ở văn hóa Óc Eo hàng loạt loại hình hiện vật đã có mặt trong văn hóa Đồng Nai. Đó là các đồ dùng, vật dụng sinh hoạt bằng gốm, dụng cụ thủ công (bàn xoa, bàn dập, bàn mài…); đồ đồng, đồ sắt (lục lạc, mũi dùi, rìu); đồ trang sức (hạt chuỗi thủy tinh, mã não); nhà sàn trên cọc gỗ…

Văn hóa Óc Eo có những giao lưu văn hóa rộng lớn với những nền văn minh thời cổ đại như với văn minh Đông Sơn (những hoa văn trang trí và những hiện vật đồng kiểu tương tự như văn minh Đông Sơn); với Ấn Độ (những tượng thờ thuộc Ấn Độ giáo, Phật giáo, đồ trang sức, hoa văn chạm chìm, con dấu, văn tự…); với thế giới Địa Trung Hải và Trung Đông (huy chương La Mã, hoa văn trang trí, hình chạm chìm, tượng đồng, hạt chuỗi La Mã, hình tượng vua Ba Tư…); và với Trung Hoa (mảnh gương đồng, tượng phật nhỏ).

Tượng Phật thế kỷ thứ V tìm thấy ở Óc Eo

Óc Eo là một di tích rất lớn, một trung tâm văn hóa cổ của đồng bằng sông Cửu Long, một hình mẫu của sự kết hợp những yếu tố nội sinh và ngoại sinh trong sự phát triển; một vốn quý và điểm chốt quan trọng trong việc nghiên cứu những vấn đề lịch sử văn hóa của đất nước và khu vực Đông Nam Á. Do đó, cần phải bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo – một di sản văn hóa – lịch sử quan trọng của Việt Nam nói riêng và của Đông Nam Á nói chung.

Lê Khiêm tổng hợp

Nguồn: Lưu Trần Tiêu, Văn hóa Óc Eo – Nhận thức và vấn đề. NCVHNT 1992, số 3; tr. 11-14.

Nguồn: http://ditichquocgia.angiang.gov.vn/oceo/index.php/gi-i-thi-u/12-vai-net-v-n-n-van-hoa-oc-eo