Archives

Bộ sưu tập báu vật “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình

Sau hơn 43 năm rong ruổi khắp nơi sưu tầm đồ cổ, hiện ông Đinh Văn Dần,sinh năm 1950, ở phường Bích Đào, (TP Ninh Bình) đang sở hữu hàng nghìn cổ vật quý giá.

Ông Dần, cho biết, trong bộ sưu tập cổ vật của ông có nhiều cổ vật mang tầm bảo vật quốc gia như: Bình, tháp, ấm, bát gốm sứ Lý Hoa nâu(thời nhà Lý); lư hương, ấm gốm thời nhà Mạc; đèn gốm đầu hạc nhà Lý; ấm rượu thời Lý; đèn nhà Trần; ghè thời Minh, đôi nghê thời Lê…

Với ông cổ vật quý không quan trọng được làm bằng chất liệu gì chỉ cần có có giá trị về thời gian, có tính thẩm mỹ cao. Chính vì thế bộ sưu tập cồ vật của ông rất phong phú và đa dạng về chất liệu như: Gốm sứ, đồng, đá, sắt, gỗ, ngọc…

Được biết, ngoài thú sưu tầm cổ vật ông Dần còn nhận sửa chữa, phục chế hoa văn, họa tiết cổ vật để kiếm thêm tiền sưu tầm thêm cổ vật.

Ông Dần chia sẻ: “ Tương lai tôi muốn xây bảo tàng để trưng bày hết những cổ vật mình có và sau này sẽ để lại toàn bộ cho con cháu tôi. Với tôi cổ vật quý là vô giá trị, nó là tinh hoa, là di sản của mỗi thời kỳ đất nước nên tôi muốn sưu tầm, gìn giữ và bảo về cho thế hệ mai sau. Tôi rất mong con cháu tôi sau này sẽ kế thừa thú chơi cổ vật của tôi gìn giữ, phát huy hết giá trị của cổ vật”.

Sau đây mời độc giả cùng chiêm ngưỡng bộ sưu tập cổ vật “siêu khủng” của ông Dần được phóng viên Báo Dân Sinh ghi lại.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 1Tốt nghiệp Đại học cơ điện Thái Nguyên loại ưu nhưng ông Dần không theo nghề mà lại say mê chơi, sưu tầm cổ vật.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 2

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 3Một góc trưng bày cổ vật quý của ông Dần.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 4

“Lọ Mai Bình (Tuyên Đức niên chế) cao 45cm thuộc loại gốm Việt cao cấp thời nhà Minh, được sản xuất, chế tác năm vua Tuyên Đức, đến giờ vẫn lành nguyên vẹn, đầy đủ hoa văn, chữ nghĩa. Ông Dần cho biết đây là món đồ đầu tiên ông mua và hiện tại giá trị quốc tế của nó là khoảng 15 triệu đôla. Hiện tại ông có 3 chiếc bình này.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 5Cận cảnh hoa văn tinh tế của một chiếc lọ Mai Bình.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 6Chiếc bình Lý Hoa nâu là một trong 4 cổ vật quý thuộc dòng gốm sứ thời nhà Lý. Nhiều người trả tiền tỷ nhưng ông không bán. Bình còn nguyên vẹn, họa văn, họa tiết từ 5- 7 tầng rõ nét như: Hoa sen quấn, hoa cúc,  hoa thị, người, phật, quỷ đội cánh sen. Theo lời ông cổ vật thời Lý mang đậm dấu ấn phật giáo vì thời đó đạo phật được tôn xùng và con là quốc giáo.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 7

Trong bộ sưu tầm của ông có nhiều cổ vật tầm cổ vật quốc gia như lư hương men ngọc lam sám thời nhà Mạc, cao khoảng 30 cm, lành tuyệt đối cao. Hoa văn trên lư hương gồm rồng, phương, chim, cánh sen và minh văn, thái cực nó mang ý nghĩa thể hiện sự tâm linh cao quý.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 8Đèn dầu gốm đầu hạc thời nhà Lý là cổ vật ông rất quý và tự hào vì cả nước có vài cái và trên bảo tàng Quốc Tế có một cái nhưng đêu bị sứt, mẻ, hỏng men và xấu không được đẹp bằng của ông.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 9

Chiếc mặt nạ Mo Mường của ông Dần được Unesco dán tem công nhận là di sản văn hóa.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 10

Đôi nghê thời Lê, cao 30cm, thân vảy rồng, mặt sư tử.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 11

Một chiếc bình rượu gốm sứ thời nhà Mạc, men lam, hình cá đâu chim, cao 20cm, rộng khoảng 7cm, trên thân ấm có hoa văn như dải lụa, ngư tảo.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 12Rìu đá cổ.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 13Ông Dần, sở hữu rất nhiều bình vôi thời Lý.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 14Ông Dần tận dụng chiếc phản để bày những cổ vật quý như: Rìu đá, rìu ngọc, dao ngọc, ngọc bội, bát…

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 15Những miếng ngọc bội quý có niên đại hàng nghìn năm từ các thời đại triều đình khác nhau.

Bộ sưu tập báu vật  “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình - Ảnh 16Sinh ra ở vùng đất có nghề truyền thống chụp ảnh, và từng hành nghề chụp ảnh kiếm sống, ông Dần tự làm cho mình một bức ảnh với tên gọi “Người sưu tầm báu vật”.

Đỗ Đức

Nguồn: http://baodansinh.vn/bo-suu-tap-bau-vat–sieu-khung-cua-dai-gia-ninh-binh-d2088.html

VỀ MỘT QUẢ ẤN CÓ NIÊN ĐẠI THỜI MẠC

NGUYỄN CÔNG VIỆT

TS. Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Trong cuốn Ấn chương Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX xuất bản cuối năm 2005 tại mục II Ấn chương Việt Nam thời Mạc chúng tôi giới thiệu sơ lược và trong đó chỉ mới khảo tả giới thiệu ba quả ấn đồng thuộc lực lượng quân đội cùng mấy sắc phong thần(1). Việc sưu tầm bổ sung ấn chương thời Mạc nói riêng và ấn chương Việt Nam nói chung vẫn được chúng tôi tiếp tục thực hiện. Gần đây được một nhà nghiên cứu và sưu tầm cổ vật quen biết cung cấp một số ấn tín và hiện vật cổ bằng đồng, trong đó có một quả ấn khắc ghi niên đại thời Mạc; bài viết xin được giới thiệu về quả ấn này qua việc đối chiếu với số ấn thời Mạc và những ấn tín khác đã công bố.

Ấn có chất liệu bằng đồng, trọng lượng 460g. Ngoại hình ấn làm kiểu chuôi vồ thắt giữa, khuôn mặt để ấn được làm theo hình vuông. Tổng chiều cao là 7cm. Mặt đế ấn hình vuông kích thước 7,7×7,7cm và dày 0,6cm. Mặt trên núm ấn có khắc 3 dòng chữ Hán, 2 dòng ở bên phải và một dòng ở bên trái. Bên phải dòng ngoài gần mép ấn khắc 6 chữ Trường phi Tả sở chi ấn 長 鈹 左 所 之 印. Dòng thứ hai bên phải là 4 chữ Thượng bảo ty tạo 尚 寶 司 造. Nét chữ khắc rõ ràng, nét khắc theo kiểu viết thô, chữ không đẹp, dòng giữa Thượng bảo ty tạo khắc lệch không thẳng hàng. Bên trái núm ấn khắc dòng ghi niên đại có 6 chữ Đại Chính nguyên niên nguyệt nhật 大 正 元 年 月 日. Mặt đế ấn có rìa cạnh 0,6cm, bên trong khắc 6 chữ triện. Nét khắc thô, không cân xứng. Bố cục chữ và nét chữ không đều nhau.

Dấu hình vuông có kích thước 7,7×7,7cm. 6 chữ triện xếp theo 3 hàng dọc. Chân hóa chữ triện trong dấu là 6 chữ Trường phi Tả sở chi ấn 長 鈹 左 所 之 印. Như vậy dòng chữ triện ở dấu trùng với nội dung dòng chữ Hán khắc trên núm ấn phía bên phải.

Trước hết xin được nói về niên đại của ấn. Theo như dòng chữ khắc bên trái mặt núm ấn thì niên đại của ấn ghi là năm Đại Chính nguyên niên. Đại Chính là niên hiệu của Mạc Đăng Doanh, Mạc Đăng Doanh là con trưởng của Mạc Đăng Dung lên ngôi tháng giêng năm 1530. Như vậy quả ấn này tạm thời được xác định có niên đại ghi năm 1530. Tuy nhiên dòng ghi niên đại mới chỉ là một trong các tiêu chí để xác định niên đại của ấn tín nói riêng và cổ vật nói chung. Muốn xác định chúng ta phải căn cứ vào ngoại hình, chất liệu, văn tự ký hiệu khắc trên ấn và đặc biệt là nội dung được khắc ở mặt đế ấn. Đồng thời phải có các ấn tín khác cùng thời, cùng loại hình lĩnh vực để đối chiếu so sánh phân tích. Điều may mắn là chúng tôi đã có ba quả ấn thời Mạc khác có nhiều điểm tương tự coi như những dị bản, dị vật để đối chiếu.

Ba quả ấn thời Mạc đã công bố hiện được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đều có chất liệu bằng đồng. Ngoại hình tương đối giống nhau với núm ấn làm kiểu chuôi vồ và khuôn mặt đế ấn được đúc theo hình vuông. Chữ Hán khắc trên cả ba quả ấn này đều có điểm tương tự, phía bên trái mặt núm ấn là dòng ghi niên đại, bên phải mặt núm có hai dòng, dòng ngoài rìa ghi nội dung văn khắc mặt dấu và dòng bên cạnh ghi cơ quan tạo ấn.

Quả ấn thứ nhất có ký hiệu LSb 2529 có chiều cao 9cm dày 0,8cm. Mặt đế ấn hình vuông kích thước 7,5×7,5cm. Mặt núm ấn dòng bên trái khắc 6 chữ Đại Chính ngũ niên nguyệt nhật 大 正 元 年 月 日. Dòng bên phải hàng trong khắc 4 chữ Thượng bảo ty tạo 尚 寶 司 造. Dòng ngoài khắc 6 chữ Hoành Hải Hậu sở chi ấn 橫 海 後 所 之 印. Đây là ấn của viên tướng Hậu sở Hoành Hải được chế tạo năm Đại Chính thứ 5 (1534) đời Mạc Đăng Doanh.

Ấn thứ hai có ký hiệu LSb 2531, chiều cao là 9cm và dày 0,7cm. Mặt ấn hình vuông kích thước 7,5×7,5cm. Mặt núm ấn dòng bên trái khắc 6 chữ Cảnh Lịch nhị niên nguyệt nhật 景 歷 二 年 月 日. Dòng ngoài bên phải khắc 6 chữ Thanh tái Tả sở chi ấn 清 塞 左 所 之 印, dòng trong khắc 4 chữ Thượng bảo ty tạo. Đây là ấn của viên tướng Tả sở Thanh tái được chế tạo năm Cảnh Lịch thứ 2 (1549) đời Mạc Phúc Nguyên.

Ấn thứ ba có ký hiệu LSb 2530, cao 9cm và dày 0,6cm. Núm ấn phía bên trái khắc 6 chữ Thuần Phúc tam niên nguyệt nhật 淳 福 三 年 月 日. Bên phải khắc 9 chữ Khuông Trị vệ Lăng Xuyên tiền sở chi ấn 匡 治 衛 凌 川 前 所 之 所. Dòng bên cạnh cũng khắc 4 chữ Thượng bảo ty tạo giống như các ấn trên. Đây là ấn của viên tướng Tiền sở Lăng Xuyên thuộc vệ Khuông Trị được chế tạo năm Thuần Phúc thứ ba (1564) đời Mạc Mậu Hợp.

Như vậy so sánh quả ấn mới phát hiện với ba quả ấn thời Mạc trên ta thấy có nhiều điểm tương đối giống nhau. Các ấn đều có chất liệu bằng đồng, ngoại hình cùng kiểu núm chuôi vồ và mặt đế ấn làm theo hình vuông. Thể thức khắc chữ Hán trên mặt núm ấn đều có ba dòng chữ, bên trái là dòng niên hiệu, bên phải là dòng ghi nội dung giống như ở mặt dấu và bên cạnh ghi cơ quan tạo ấn là Ty Thượng bảo (Thượng bảo ty tạo)(2). Cũng như giá trị của dòng ghi niên hiệu trong việc xác định niên đại, khoảng thời gian tạo ấn, dòng chữ Thượng bảo ty tạo là một trong các tiêu chí quan trọng để xác định đây là quả ấn thuộc thời Mạc, nó giống như dòng chữ Vũ khố phụng tạo trên ấn đồng thời Nguyễn và dòng chữ Tân Hợi niên đông tạo trên ấn đồng thời Tây Sơn(3).

So sánh nội dung triện văn của quả ấn mới với ba ấn đã công bố cũng có nhiều điểm giống nhau. Ấn mới có 6 chữ triện (bằng số chữ của 2 ấn ký hiệu LSb 2529 và LSb 2531. Đây là ấn của một viên tướng chỉ huy cấp sở (Tả sở Trường phi) thuộc lực lượng quân đội nhà Mạc như ba ấn đồng trên chỉ khác tên đơn vị. Chúng tôi chưa có điều kiện tra cứu tìm Tả sở Trường phi thuộc lực lượng quân đội Ngũ quân (Ngũ phủ) hay thuộc lực lượng quân sự địa phương, song chắc chắn đây là một đơn vị không lớn nằm dưới cấp Vệ trong biên chế quân đội nhà Mạc.

Về hình thức, kiểu chữ triện khắc trên ấn mới không khác ba ấn cũ, nhưng nét khắc và bố cục khuôn chữ có điểm khác nhau. Ở ấn mới có nét khắc thô, nét dầy nét mảnh không đều nên khi in trên giấy ta thấy độ tương phản rất rõ và nét chữ không thẳng hàng. Điểm khác biệt quan trọng là kích thước của ba chữ hàng trên không giống ba chữ hàng dưới. Kích thước chiều rộng mỗi chữ là 1,8cm, nhưng chiều dài của 3 chữ hàng trên là 3,1cm, còn chiều dài của 3 chữ hàng dưới lại chỉ có 2,5cm. So sánh kích thước từng chữ của 3 quả ấn cũ thời Mạc và những ấn đồng khác chúng tôi thấy kích cỡ chữ triện trong mỗi một con dấu rất đều nhau, cả chiều dài và chiều rộng nếu xếp theo kiểu đăng đối 3 hàng 6 chữ, 4 hàng 8 chữ… Còn nếu xếp theo kiểu lẻ 3 hàng 7 chữ hoặc 8 chữ(4) thì kích thước bố cục chữ ở mỗi dòng cũng phải bằng nhau không có sự khác biệt. Đấy có lẽ là những quy tắc bất biến của việc chế tác đúc ấn mà các triều đại phong kiến đều đặt làm định lệ.

Mặt khác đo kỹ hình dấu mặt đế ấn ta thấy ấn làm không được vuông vức lắm. Cạnh bên phải và cạnh trên dài 7,7cm, cạnh dưới và bên trái chỉ dài 7,6cm. Do đó khi nhìn hình dấu sẽ thấy ngay điểm lệch không cân đối. Tất cả những khác biệt trên của quả ấn đồng mới này khiến chúng tôi có suy nghĩ: phải chăng đây là quả ấn được làm thủ công không giống ba quả ấn nhà Mạc đã công bố ? Như vậy thì ấn này không phải được tạo tác ở Ty Thượng bảo ? Nhưng ở đây mặt ấn lại khắc 4 chữ Thượng bảo ty tạo! Đấy là điều khó lý giải cho những người làm công tác sưu tầm nghiên cứu ấn chương nói riêng và cổ vật nói chung sẽ mắc phải.

Nhưng may mắn là chúng ta vẫn còn một tiêu chí quan trọng nữa để xét tính chân ngụy của quả ấn mới này, đó là chất liệu của ấn. Ấn Trường phi Tả sở này có chất liệu bằng đồng, Ten đồng có màu xanh lục loang lổ. Trông ngoại hình thì nó rất cổ và cũng giống như bao ấn đồng khác. Tham khảo ý kiến một vài nhà nghiên cứu cổ vật thì chất liệu đồng ở quả ấn này cũng có thể đến vài trăm năm tuổi ? Kiến thức này chỉ có được ở các nhà Khảo cổ học, Bảo tàng học và những người chuyên sưu tầm nghiên cứu cổ vật. Ý kiến đánh giá chất liệu đồng của ấn này sẽ là lời khẳng định giá trị trong việc xác định niên đại của ấn.

Trước tình trạng hiện nay rất nhiều cổ vật bằng đồng, bằng gốm, bằng đá, bằng ngà… và cả tài liệu thư tịch Hán Nôm được làm giả với mục đích kinh tế vụ lợi. Song chúng tôi lại rất mong muốn quả ấn công bố trong bài viết này là ấn có niên đại thật. Như vậy nó không chỉ bổ sung cho số lượng ấn chương thời Mạc nói riêng, cho ấn chương Việt Nam nói chung và cao hơn cho kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Mong muốn của chúng tôi hy vọng sẽ được các nhà Khảo cổ học và Bảo tàng học giải đáp trong thời gian không xa.

Chú thích: Mặt trên núm ấn và dấu Trường phi Tả sở chi ấn

(1) Xem Nguyễn Công Việt: Ấn chương Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX – Mục Ấn chương Việt Nam thời Mạc Nxb. KHXH, H. 2005, từ tr.135 đến tr.152.

(2) Nhà Mạc lập Ty Thượng bảo theo cơ cấu tổ chức của nhà Lê sơ, mô phỏng theo tổ chức của nhà Minh (Trung Quốc). Ty Thượng bảo là nơi tạo đúc vật dụng kim loại, chủ yếu chế tác từ nguyên liệu đồng; Hầu hết các ấn tín đều được làm từ ty này và theo quy chế nhất định.

Xem. Ấn chương Việt Nam…Sđd, mục Thực trạng về ấn chương triều Quang Trung tr.235-249 và Ấn chương trong các cấp chính quyền địa phương thời Nguyễn, tr.401-252.

(4) Xem H.22 Dấu Phụng mệnh Tuần phủ đô tướng quân ấn (tr.121) và H.176 Quảng Nam Quảng Ngãi Tổng đốc quan phòng tr.418 – trong Ấn chương Việt Nam…Sđd./.

(Tạp chí Hán Nôm, Số 3 (76) 2006; Tr.54-57)

Nguồn: http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=99&Catid=42

 

PS: Cần dùng phương pháp giám định cổ vật bằng máy quang phổ hoặc thiết bị hiện đại hơn để xác minh lại hiện vật này.

Văn hóa Gò Mun!

Văn hoá Gò Mun lấy tên địa danh đầu tiên phát hiện được là Gò Mun- xã Tứ Xã- huyện Lâm Thao- tỉnh Phú Thọ.

Văn hoá Gò Mun có niên đại cách ngày nay 2500-3000 năm, là nền văn hóa hậu kỳ thời đại đồng thau và tiền Đông Sơn (sơ kỳ đồ sắt). Phân bố ở miền Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, trùng với địa bàn phân bố của văn hoá Đồng Đậuvăn hóa Phùng Nguyên. Đó là các địa điểm Bãi Dưới, Vinh Quang, Đình Tràng, Đồng Lâm, Nội Gầm…thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội. Trên địa bàn Phú Thọ có 14 địa điểm di tích văn hoá Gò Mun như các di chỉ: Gò Mun, Gò Chiền, Gò Tro Trên, Gò Tro Dưới… phân bố trong các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Đoan Hùng….

Sự thống nhất và tương đồng về các mặt như cảnh quan nơi cư trú, phạm vi địa tầng, các di tích và di vật… đều phản ánh một cộng đồng cư dân tồn tại thực sự trong không gian và thời gian ở lưu vực sông Hồng. Điều đó trái với một số nhận định trước đây cho rằng văn hoá Gò Mun chỉ như một “bản lề”, một “khâu chuyển tiếp” hay một điểm “giao thời”, “đệm” cho văn hoá Phùng Nguyên – Đông Sơn.

Các hiện vật thu được tại di chỉ khảo cổ Gò Mun:

Tại di chỉ khảo cổ Gò Mun tiêu biểu nhất cho văn hóa Gò Mun, qua 4 lần khai quật vào các năm 1961, 1965, 1969, 1971 các nhà khảo cổ học đã thu được hàng vạn hiện vật bao gồm: đồ đá, đồ đồng, đồ xương, đồ gốm với đủ loại các loại hình khác nhau.

Hiện vật đá: qua 4 lần khai quật đã thu được 231 tiêu bản trong đó đáng chú ý là các loại hiện vật như rìu, đục, bàn mài, chì lưới, vòng tay, khuyên tai, khánh…;

Hiện vật đồng với tổng số 340 hiện vật là các loại hình như rìu, liềm, đục, mũi tên, mũi lao, giáo, lưỡi câu…; hiện vật gốm thời kì này có dọi se sợi, nồi, vò, mảnh gốm, chân chạc…

Hiện vật văn hóa Gò Mun khá đa dạng về loại hình và chất liệu như:

hiện vật công cụ sản xuất, đồ dùng sinh hoạt, vũ khí chiến đấu, tác phẩm nghệ thuật; được làm từ chất liệu đồng, gốm, đá…Trong số đó các công cụ và vũ khí bằng đồng chiếm số lượng chủ yếu. Giai đoạn này, các nhà nghiên cứu khảo cổ học đã tìm thấy các loại mũi tên, mũi giáo, rìu lưỡi xéo, kim, dùi đục, lưỡi câu… qua đó cho chúng ta biết được người Gò Mun không chỉ có các công cụ phục vụ sản xuất mà còn có công cụ phục vụ chiến đấu, săn bắn. Giai đoạn Gò Mun lần đầu tiên xuất hiện mũi tên được làm bằng đồng thau, đa dạng về loại hình và giàu có về số lượng.

Thông quá đó cũng cho chúng ta thấy sự khéo léo của cư dân người Việt cổ trong kỹ thuật chế tác kim khí và cũng là tiền đề cho truyền thống nghệ thuật quân sự (sử dụng cung nỏ trong chiến đấu) mà các giai đoạn sau tiếp thu trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Nghề luyện kim đồng thau phát triển trong văn hóa Gò Mun:

Hơn thế nữa ở giai đoạn này còn ghi nhận sự phát triển của nghề luyện kim đồng thau so với các giai đoạn trước. Đồ đồng trong văn hóa Gò Mun khá phong phú, gồm nhiều loại hình khác nhau.  Nguyên liệu chủ yếu là đồng và thiếc trong thành phần hợp kim. Ngoài ra còn có một số tạp chất khác. Do kỹ thuật luyện đồng của người Gò Mun chưa cao, chưa phân huỷ được những chất có tác dụng ăn mòn và ôxy hóa nên nhiều hiện vật bị hỏng, gỉ và thường mềm hơn so với hiện vật đồng của văn hóa Đông Sơn.

Cách chế tác đồ đồng chủ yếu là đúc bằng khuôn hai mang đối với hiện vật có kích cỡ lớn, cấu tạo phức tạp, nhiều chi tiết như: rìu, giáo, lao, mũi tên, tượng, nhạc… và sử dụng kỹ thuật gia công nguội, giũa đối với hiện vật nhỏ, đơn giản như: lưỡi câu, lao mũi nhọn nhỏ, kéo thành sợi.

Những sản phẩm bằng đồng của người Gò Mun do chính bàn tay, khối óc của họ tạo ra. Điều đó đã được minh chứng bằng sự có mặt của những khuôn đúc bằng đá, bằng đất nung, nồi nấu, bát rót và lò luyện tìm thấy trong tầng văn hóa với nơi họ cư trú mà họ để lại.

Tượng đồng thuộc Văn hóa Gò Mun

Sự đa dạng về loại hình đồ đồng là yếu tố quan trọng phân biệt văn hóa Gò Mun và văn hóa Đồng Đậu:

Trong giai đoạn văn hóa Gò Mun loại hình công cụ đồng đã bắt đầu đa dạng hóa. Nhiều loại hình mới xuất hiện và chức năng được xác định rõ ràng. Chính việc ổn định kiểu dáng đã dẫn đến việc sử dụng chuyên hóa chức năng công cụ, mang lại hiệu quả cao trong sản xuất và chiến đấu. Song dù sao người Gò Mun vẫn chưa thể đạt tới trình độ điêu luyện về kỹ thuật, đa dạng phong phú về loại hình và nhất là về nghệ thuật trang trí, như trên đồ đồng văn hóa Đông Sơn.

Hầu hết những công cụ và vũ khí bằng đồng của người Gò Mun: rìu, liềm, giáo, mũi tên, lao, búa… đều có họng, chuôi, hoặc khâu để lắp cán. Đây là những c«ng côcơ bản nhất đóng vai trò quan trọng trong đời sống sản xuất, săn bắt và bảo vệ cuộc sống của cư dân Gò Mun thời bấy giờ.

Thông qua những hiện vật như lưỡi hái bằng đồng thau phát hiện ở nhiều nơi nói lên sự phát triển và hoàn thiện của nghề trồng lúa nước. Lưỡi hái cong, có gỗ tra cán cho thấy bước tiến bộ hơn trong nghệ thuật chế tác so với các giai đoạn trước.

Cư dân Gò Mun không chỉ dùng đồng để chế tác công cụ sản xuất, vũ khí mà người Gò Mun còn sáng tạo ra đồ trang sức làm bằng đồng thau như vòng tay làm từ dây đồng.

Bên cạnh hiện vật đồng thau, giai đoạn văn hóa Gò Mun cũng được ghi nhận sự phát triển mang tính tiếp nối của các hiện vật đồ gốm.

Hoa văn trang trí trên đồ gốm trong văn hóa Gò Mun:

Hoa văn trang trí trên đồ gốm Gò Mun rất phong phú và đa dạng. Người Gò Mun đã dùng đồ gốm để thể hiện tư duy thẩm mỹ của mình. Vị trí trang trí hoa văn trên đồ gốm dùng để đựng hoặc đun nấu của người Gò Mun chủ yếu ở mặt miệng, trong lòng, ngoài cổ, vai, thân hoặc ngoài chân đế.

Hoa văn gốm Gò Mun chủ yếu là văn thừng, văn nan chiếu, in ô vuông, chải được tạo nên do những bàn dập, bàn chải trong quá trình tạo xương gốm. Ngoài ra còn có hoa văn khắc vạch, in ấn, đắp nổi được trang trí sau khi kết thúc khâu tạo hình, cần cho đồ gốm có thẩm mỹ. Cả hai loại hoa văn này được người Gò Mun kết hợp một cách hài hòa trên một số đồ gốm cơ bản. Người thợ gốm Gò Mun phát triển lối trang trí hoa văn bên trong miệng hiện vật đó có từ giai đoạn Đồng Đậu. Miệng gốm bẻ loe ra nằm ngang, rộng bản.

Nếu như gốm Phùng Nguyên được nung ở nhiệt độ thấp khoảng 6000C và có lẫn nhiều tạp chất hữu cơ nên có gốm thường nhẹ, dễ thấm nước và bở hơn  thì đến giai đoạn này, gốm được nung ở nhiệt độ cao, tỉ lệ ôxít silic cao và được nung ở nhiệt độ từ 8000C đến 9000C vì thế mà gốm có độ cứng hơn, có những mảnh gốm như mảnh sành, ít thấm nước và màu gốm cũng thay đổi cơ bản, màu gốm chuyển sang màu xám tro, xám mốc chứ không tươi đỏ như thời kì trước.

Mảnh gốm – Văn hóa Gò Mun

Loại hình gốm trong văn hóa Gò Mun rất phong phú:

Sự đa dạng về loại hình đồ gốm bao gồm cả đồ dùng cho sản xuất và đồ đựng như: nồi, vò, âu, bát, bi, dọi xe chỉ, chì lưới cho thấy bước phát triển lớn trong đời sống sinh hoạt của cư dân Gò Mun.Qua đó  phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của người Gò Mun giúp ta khắc được họa bức tranh toàn cảnh về sự tụ cư thời đó. Đó là sự quần cư trong các xóm làng của các gia đình người Việt cổ, tiêu biểu như các làng Tứ Xã, Thanh Đình,  …, là sự hình thành tổ chức sản xuất theo hộ gia đình là chính…và sau này trải qua hàng ngàn năm đã hình thành nên văn hóa làng xã độc đáo ở Việt Nam.

Như vậy có thể thấy rằng: giai đoạn này xã hội người Việt đã có những bước chuyển biến sâu sắc và rõ rệt. Người Gò Mun sinh sống bằng nghề trồng lúa nước là chính, người dân sống chủ yếu bằng sản phẩm của mình làm ra chứ không phải khai thác trong tự nhiên như trước kia nữa; bên cạnh đó còn chăn nuôi và săn bắt đánh cá. Chính vì có bước tiến bộ trong kĩ năng canh tác cũng như tổ chức cuộc sống mà người dân Gò Mun ngày càng dư giả, góp phần thúc đẩy sự ra đời nhà nước sơ khai đầu tiên của người Việt.

Với các giá trị quan trọng về khoa học và lịch sử, năm 2008, di chỉ Gò Mun – xã Tứ xã- huyện Lâm Thao đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia.

Hiện nay tại bảo tàng Hùng Vương đang lưu giữ và trưng bày một số hiện vật thuộc văn hóa Gò Mun như đồ đồng, gốm, đá thuộc loại hình công cụ sản xuất, vũ khí như: rìu có vai, rìu tứ giác, rìu tứ diện, bàn mài được làm từ chất liệu đá; một số mũi lao, mũi giáo làm từ chất liệu đồng; chân chạc gốm… tuy số lượng hiện vật còn hạn chế so với các giai đoạn lịch sử khác nhưng qua đó đã giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể và sinh động hơn về một thời kì có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình dựng nước của dân tộc. Đó cũng chính thời kỳ tạo cơ sở chủ yếu  cho nền văn minh sông Hồng của người Việt cổ.

Nguồn: http://baotanghungvuong.vn/index.php/hien-vat-dac-sac/401-van-hoa-go-mun

Văn hóa Đồng Đậu

Văn hóa Đồng Đậu là nền văn hóa tiếp nối văn hóa Phùng Nguyên.

Văn hóa Đồng Đậu thuộc xã Minh Tân- huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc, được các cán bộ văn hóa của tỉnh phát hiện năm 1962. Qua 6 lần khai quật đã phát hiện hàng vạn hiện vật đồ đá, đồ đồng, gốm, xương sừng… Nền văn hóa này có niên đại mở đầu vào khoảng thế kỷ XV- XIV trước công nguyên và chấm dứt thế kỷ X-IX trước công nguyên.

Dấu tích Lò – Văn hóa Đồng Đậu

Ở Phú Thọ có một số địa điểm thuộc nền văn hóa này. Đó là: Xóm Rền, Nội Gan- Kinh Kệ, Đồng Đậu con – Tứ Xã- Lâm Thao…Đây là nền văn hóa quan trọng tương ứng với thời đại tiền Hùng Vương ở Việt Nam. Việc phát hiện các di chỉ thuộc nền văn hóa này một lần nữa khẳng định Phú Thọ là một trong những cái nôi của nền văn minh trong lịch sử: văn minh Việt cổ.

Đồ gốm trong văn hóa Đồng Đậu:

Người Đồng Đậu tiếp thu những kỹ thuật, thành tựu của cư dân Phùng Nguyên trong việc chế tác đá và làm gốm thành những sản phẩm bình, bát, nồi vò…nhưng khác biệt là ở chỗ người Đồng Đậu cải tiến trong loại hình đồ gốm miệng loe, bẻ xiên, vát mỏng hay trang trí hoa văn sóng nước bằng dụng cụ nhiều răng được gọi là “bút kẻ khuôn nhạc” trở thành đặc trưng không thể thiếu của văn hóa Đồng Đậu. Hoa văn trên gốm Đồng Đậu chủ yếu trang trí ở cổ hay ở vành mép miệng của đồ gốm.

Miệng bình gốm – văn hóa Đồng Đậu

Một đặc trưng khác của gốm Đồng Đậu khác so với gốm Phùng Nguyên và gốm Gò Mun là gốm Đồng Đậu thường có dấu in đan lóng mốt trong một số loại đồ đựng thuộc loại đáy bằng. Về chất liệu gốm, nếu như gốm Phùng Nguyên có màu đỏ, màu hồng nhạt thì gốm Đồng Đậu có màu xám và có độ nung cao hơn nhưng về cơ bản vẫn mang yếu tố truyền thống là đất sét pha cát và bã thực vật. Trong các di chỉ Đồng Đậu xuất hiện rất phổ biến tượng đất nung: tượng bò, tượng gà, tượng rùa…

Đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu:

Về đồ đá họ cũng biết làm rìu đá, đục đá, mũi lao xương, khuyên tai có mấu, vòng tay bằng đá ngọc nhưng đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu không chau chuốt bằng đá Phùng Nguyên và ở Đồng Đầu đồ đá xuất hiện mũi tên ba cạnh, mặt cắt tam giác hay hạt chuỗi hình “gối quạ”. Qua những lần khai quật tại các di chỉ, các nhà khảo cổ học nhận định rằng công cụ sản xuất đồ đá trong văn hóa Đồng Đậu có chiều hướng giảm đi và được thay thế bằng đồ đồng.

Truyền thống cư dân vùng Phú Thọ trồng lúa nước có từ thời kỳ Phùng Nguyên thì đến Đồng Đậu một lần nữa lại khẳng định điều này. Nhiều thóc gạo đã được tìm thấy trong nhiều di chỉ và đặc biệt trong di chỉ Đồng Đậu đã tìm thấy dấu vết hạt gạo cháy.

Đồ đồng trong văn hóa Đồng Đậu:

Trong văn hóa Phùng Nguyên khai quật các di chỉ cho thấy xuất hiện nhiều những cục sỉ đồng nhỏ như hạt ngô ở Gò Bông và một số mảnh đồng nhỏ chưa định hình tại Đoan Thượng- …thì đến Đồng Đậu công cụ bằng đồng đạt đến trình độ cao. Một bước phát triển đột biến như là một cuộc cách mạng về luyện kim. Trong nhiều di chỉ phát hiện nồi nấu luyện đồng, lò nung, khuôn đúc các loại đơn hoặc kép. Hàng trăm mảnh khuôn, mảnh nồi nấu đồng, dấu vết của lò nung, nhiều tiêu bản được xem như lõi của khuôn đúc, cùng với các loại công cụ như: rìu xòe cân, giáo, lao, đao, mũi tên hai ngạnh, đũa, búa, lưỡi câu được chế tác hoàn chỉnh.

Đồ đồng – văn hóa Đồng Đậu

Qua 6 lần khai quật tại các di chỉ của Đồng Đậu đã tìm được rất nhiều loại lưỡi câu đồng, điều đó cho thấy cư dân Đồng Đậu là những người đánh cá rất giỏi vì bộ lưỡi câu đồng tìm được với các kỹ thuật phức tạp: từ đúc tạo que, đến gia công rèn nguội, chặt ngạnh, chặt mũi uốn lỗ xỏ dây đã tạo được một sản phẩm hoàn chỉnh như chiếc lưỡi câu ngày nay. Tại một số di chỉ khác của Đồng Đậu tìm được rất nhiều xương răng của các loài cá như: cá quả, cá chép, cá trắm, cá chiên, cá chuối đã chứng tỏ ưu thế về phương thức khai thác thủy sản trong đó có nghề câu cá ở thời kỳ này.

Nông nghiệp Đồng Đậu:

Với một nền nông nghiệp phát triển, kế thừa thành tựu chế tác đá gốm của người Phùng Nguyên cùng với đỉnh cao của kỹ thuật chế tác đồng đã đánh dấu một bước phát triển của xã hội cư dân Đồng Đậu. Với việc khai thác các di chỉ mộ táng cho ta hiểu biết hơn về tổ chức xã hội cũng như thế giới tinh thần của cư dân Đồng Đậu như khai quật được một mộ táng đơn hay 1 mộ song táng (2 cá thể) dùng đất sét làm nền quan tài.

Dấu tích bếp nấu ăn – Văn hóa Đồng Đậu

Văn hóa Đồng Đậu được GS Hà Văn Tấn khẳng định:

“Đó là văn hóa của những người luyện kim, chế tác kim loại điêu luyện và lành nghề. Đó là văn hóa của những người thợ gốm tài hoa, tạo tác những khối lượng động vật độc đáo, chế tác được những đồ gốm kích thước lớn, trang trí hoa văn đẹp mang phong cách riêng của thời đại mình đang sống. Và đó cũng là văn hóa của những người biết phát huy, kế thừa những thành quả của cha ông thời Phùng Nguyên để bồi đắp, tạo lập một thế hệ mới phát triển cao hơn, biết chọn điểm nhấn quan trọng, quyết định đến sự tồn vong của cộng đồng là luyện kim và đúc đồng bên cạnh nghề chế tác đá truyền thống….”

Hiện nay tại Bảo tàng Hùng Vương đang trưng bày giới thiệu một số bộ sưu tập hiện vật Đồng Đậu. Cùng với các vấn đề đã được làm sáng tỏ của văn hóa Đồng Đậu, còn rất nhiều câu hỏi mở như: Dấu vết cư trú của cư dân Đồng Đậu, vấn đề cư trú, vấn đề phân chia giai đoạn của nền văn hóa này…đang chờ các bạn tìm hiểu và giải đáp trong tương lai.

Nguồn: http://baotanghungvuong.vn/index.php/nghien-cuu-suu-tam/400-van-hoa-dong-dau

Tìm hiểu cách thức sử dụng trống đồng Đông Sơn qua tư liệu khảo cổ học và dân tộc học

Trống đồng Đông Sơn là di vật tiêu biểu nhất, đặc trưng nhất của nền văn hóa Đông Sơn. Trong 90 năm qua, kể từ ngày phát hiện văn hóa Đông Sơn, trống đồng Đông Sơn luôn được các nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu về tất cả các khía cạnh. Tuy nhiên, về chức năng cũng như cách thức sử dụng của trống đồng Đông Sơn vẫn chưa thực sự đồng nhất các quan điểm. Có ý kiến cho rằng, đây đơn thuần chỉ là một nhạc khí, nhưng cũng có ý kiến lại cho đây là vật biểu trưng quyền lực hoặc vừa là nhạc khí vừa là biểu trưng quyền lực. Song, xét về chung mọi ý kiến thì trống đồng là một loại nhạc khí được nhiều người công nhận hơn cả.

Là nhạc khí thì việc sử dụng nó được tiến hành ra sao? Vấn đề này cũng được các nhà khoa học dày công nghiên cứu. Việc nghiên cứu chủ yếu dựa trên các tư liệu về khảo cổ học và dân tộc học.

Thông qua các tư liệu về khảo cổ học

Trên khía cạnh khảo cổ học, nghiên cứu cách thức sử dụng trống đồng như một nhạc khí được căn cứ ở các đặc điểm trên bề mặt trống như cấu tạo, hiện trạng và hoa văn trên trống.

Về đặc điểm: Những trống đồng của văn hóa Đông Sơn đều thuộc loại I theo cách phân loại của F. Heger. Kết cấu trống đồng Đông Sơn gồm 4 phần: mặt, tang, thân và chân. Mặt trống hình tròn, giữa mặt đúc nổi hình mặt trời với 12 đến 18 tia, xung quanh trang trí nhiều băng hoa văn. Tang trống hơi phình ra, nối liền với mặt trống; thân trống hình trụ tròn thẳng đứng; phần chân hơi loe thành hình nón cụt. Có bốn chiếc quai chia làm hai cặp gắn vào tang và phần giữa trống, được trang trí hình bện thừng.

Như vậy vị trí đánh (gõ) trống chính là giữa mặt trống bởi chỗ này được đúc nổi hình mặt trời dày hơn để chịu nhiều tác động của vật đánh (dùi), các tia mặt trời sẽ làm lan tỏa âm thanh ra xung quanh. Tuy nhiên, phần tang và thân trống có thể cũng được đánh để tạo nên những đặc điểm âm thanh khác nhau. Ngoài ra, trống còn có một thùng cộng hưởng độc đáo: phần tang phình, phần thân và chân loe ra giúp cho trống có âm thanh vang xa, từ những âm thanh ban đầu được nhân lên về mặt cường độ. Một điều cần lưu ý là 4 quai trống được đúc đối xứng khá dày và chắc chắn. Điều này cho ta liên tưởng tới việc trống được luồn dây để treo lên trong quá trình sử dụng.

Về hiện trạng: Sau hàng nghìn năm tồn tại, nhiều chiếc trống đồng được tìm thấy còn tương đối nguyên vẹn. Xem xét về hiện trạng của nhiều chiếc trống đồng, ta thấy, phần lớn ở giữa mặt những chiếc trống, vị trí in nổi của mặt trời nhiều tia thường nhẵn, rỗ, hoặc bị biến dạng. Nguyên nhân có thể là do sự tác động thường xuyên của dùi? Điều này một lần nữa minh chứng trống chủ yếu được đánh/gõ vào vị trí chính giữa mặt trống.


Hình ảnh đánh trống trên mặt trống Cổ Loa (Nguồn: BTLSQG)

Trong nhiều tài liệu khảo cổ học, khi nhắc tới cách thức sử dụng trống đồng, phần lớn các tác giả đều dựa vào những họa tiết hoa văn trang trí trên trống. Xem xét trên bề mặt các trống như trống Ngọc Lũ, trống Hoàng Hạ, trống Cổ Loa và trống Sông Đà… ta có thể thấy bề mặt mỗi chiếc trống đều có 2 cảnh người đánh trống đối xứng nhau qua tâm. Theo đó thì một dàn trống thường có 4 chiếc cạnh nhau, phía trên là bốn người trong tư thế ngồi hoặc đứng dùng một cái cây dài để gõ thẳng đứng lên mặt trống. Theo Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội năm 1994) thì người xưa còn đào hố rộng ra rồi trống ở lơ lửng giữa hố, giúp âm thanh đã mạnh rồi lại mạnh hơn. Những hố cộng hưởng này còn thấy trên mặt trống đồng Ngọc Lũ.

Những tư liệu dân tộc học

Hiện nay, theo tác giả được biết, ở Việt Nam còn có một số dân tộc thiểu số sử dụng trống đồng trong sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng, tiểu biểu như người Mường, người Lô Lô, người Pu Péo… Đây là tư liệu quan trọng để đối sánh, so sánh tìm ra phương pháp sử dụng trống đồng như một nhạc khí của cư dân Việt cổ.

Cách đánh trống đồng của dân tộc Mường hiện nay tương đối giống như mô tả trên mặt các trống đồng đã kể trên, tức là theo lối giã gạo. Người Mường cũng dùng những dùi trống dài như chày giã gạo với khoảng 3 – 4 người đứng xung quanh để đánh vào mặt trống theo hướng thẳng đứng. Xem ra, cách đánh này chủ yếu mang tính tượng trưng của một tiết tấu vũ điệu hơn là về hiệu quả âm thanh. Do đó có thể hiểu tư thế để úp nằm của nó là để tiện cho nhiều người diễn tấu cùng một lúc. Trên thực tế, người Mường cũng đặt trống trên một cái giá gỗ thấp gồm hai thanh gỗ bắt chéo hình chữ thập làm sàn kê, có 4 chân ngắn để bớt hạn chế về nguyên tắc âm thanh.

Theo cuốn Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam (Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, năm 1997) thì phương thức diễn tấu trống đồng của các tộc khác như Lô Lô và Pu Péo tương đối giống với các dân tộc ở Hoa Nam (Trung Quốc).

Ngày nay, đồng bào Lô Lô nhiều vùng còn giữ được những bộ trống đồng, mỗi bộ gồm hai cái: trống đực (nhỏ hơn) và trống cái (to hơn). Trống có 4 quai bố trí thành từng cặp đối xứng nhau qua trục thân. Mặt và tang trang trí hoa văn nét nổi. Chính giữa mặt trống là hoa văn hình mặt trời với 12 tia. Trống đồng là loại nhạc cụ truyền thống nổi tiếng của người Lô Lô, tộc trưởng cất giữ trống đồng cho dòng họ, bảo quản bằng cách chôn xuống đất. Khi nào dùng thì mới đào lên. Khi dùng trống, họ đặt hai trống (đực và cái) treo quay mặt trống vào nhau. Người đánh trống đứng ở giữa cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống và có tới 36 điệu đánh trống. Trống đánh giữ nhịp cho các điệu múa dân gian.


Người Lô Lô ở Hà Giang sử dụng trống đồng (Nguồn: Internet)

Hiện nay, người Pu Péo chỉ dùng trống đồng trong lễ làm chay. Cũng giống người Lô Lô, trống của người Pu Péo có 1 bộ gồm 1 trống đực và 1 trống cái. Bình thường cất trống trên sàn gác. Trước khi dùng phải cúng từng chiếc trống với lễ vật là hai bát rượu, con gà. Cúng xong, đổ rượu lên mặt trống rồi mới treo trống. Trống được treo ở cạnh cửa ra vào ở gian giữa, trống đực treo bên trái, trống cái treo bên phải. Hai mặt trống quay vào nhau. Người đánh trống phải là đàn ông đứng ở giữa dùng củ chuối gõ vào hai mặt trống theo sự điều khiển của thầy cúng. Người ta đánh trống, vui múa suốt một đêm một ngày. Đồng bào tin rằng hồn ngô lúa rất sợ tiếng trống vì thế họ chỉ làm chay sau khi mùa màng đã thu hoạch xong. Nhưng nếu vì hoàn cảnh phải dùng trống sớm hơn thì chỉ được đánh ba tiếng trống thôi – trống đực đánh một tiếng, trống cái hai tiếng.

Cách đánh trống của người Lô Lô và Pu Péo mô tả ở trên cũng cho thấy một phần cách nhìn này đối với từng cặp trống đực – cái có cao độ khác nhau.

Một vài nhận xét

Như vậy có thể thấy, trống đồng là một nhạc khí, vị trí để tác động lên trống chủ yếu là trung tâm của mặt trống, nơi có hình mặt trời được đúc khá dày. Tuy nhiên để tạo ra được những âm thanh khác nhau, có thể những vị trí xung quanh đó, bảo gồm cả tang và thân trống cũng được tận dụng để tác động.

Về tư thế, trống đồng được đánh dựa trên 2 kiểu chính: thứ nhất, ngửa mặt trống lên và tác động thẳng đứng xuống trung tâm mặt trống. Phía dưới chân trống có thể được kê lên cao hoặc tạo những “hố cộng hưởng”. Tuy nhiên, cách này chủ yếu mang tính chất diễn tấu, không mang lại hiệu quả về âm thanh; thứ 2, trống được buộc dây vào quai và treo lên, người đánh dùng dùi tác động vào mặt hoặc thân và tang trống. Cách này tạo có thể tạo ra được hiệu quả về âm thanh hơn và hiện nay vẫn còn được một số dân tộc thiểu số sử dụng.

Tùy thuộc vào kiểu đánh trống mà vật tác động lên trống (dùi) cũng dài ngắn khác nhau. Tuy nhiên, những chiếc dùi được làm bằng gỗ, đầu bọc vải để hạn chế làm biến dạng hoa văn trên trống.

Trải qua trên dưới 2000 năm, bên cạnh việc bảo lưu những nét đặc trưng từ thời Đông Sơn thì cũng có nhiều nét văn hóa đã mất, trong đó có phong tục đánh và sử dụng trống đồng. Do đó, việc phục dựng lại truyền thống đánh trống đồng ở người Việt hiện nay cũng còn nhiều quan điểm và luận giải khác nhau. Với phương pháp tiếp cận liên ngành khảo cổ học và dân tộc học, chúng ta có thể tìm hiểu về cách thức đánh trống đồng của người Việt cổ một cách tương đối toàn diện. Tuy nhiên, bài viết này chỉ có thể đưa ra những tư liệu mang tính chất gợi mở. Trong tương lai, cần có những nghiên cứu thêm về vấn đề này.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Tài liệu tham khảo

1. Phạm Minh Huyền 1996. Văn hóa Đông Sơn, tính thống nhất và đa dạng. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

2. Hán Văn Khẩn (Chủ biên) 2008. Cơ sở Khảo cổ học. Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Đình Khoa 1983. Các dân tộc ít người ở Việt Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Hà Văn Tấn (Chủ biên) 1994. Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

5. Phạm Huy Thông (Chủ biên) 1990. Dong Son Drums in Viet Nam. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

6. Viện dân tộc học 1987. Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc). Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

7. Nhiều tác giả 1999. Phong tục tập quán của các dân tộc Việt Nam. Nxb. Văn hóa – Dân tộc, Hà Nội.

Tổng thuật tọa đàm khoa học quốc tế: Văn hóa Đông Sơn và nguồn gốc dân tộc Việt

Trong các ngày từ mồng 8 đến 10 tháng 8 năm 2014, tại Hà Nội và Thanh Hóa, Viện Khảo cổ học phối hợp với Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa tổ chức Tọa đàm khoa học Quốc tế “Văn hóa Đông Sơn và nguồn gốc dân tộc Việt”. Hội thảo được tổ chức nhằm nhìn nhận lại 90 năm nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn (VHĐS) kể từ khi được phát hiện (năm 1924) và thảo luận một số vấn đề cần được tiếp tục quan tâm, khi gần đây có ý kiến phủ nhận các kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội Việt Nam về tính bản địa và chủ nhân của nền văn hóa này. Tham dự hội thảo có các nhà nghiên cứu Khảo cổ học, Dân tộc học, Sử học …Việt Nam, Nhật Bản, Lào, Campuchia.

Mở đầu cuộc tọa đàm là tham luận của PGS.TS Nguyễn Giang Hải – PGS.TS Trình Năng Chung (Văn hóa Đông Sơn – chín mươi năm phát hiện và nghiên cứu) nhìn nhận lại lịch sử phát hiện và nghiên cứu của VHĐS. Vào mùa hè năm 1924, di tích Đông Sơn được phát hiện tình cờ do một người nông dân đi câu cá tìm thấy một số đồ đồng xuất lộ bên sông Mã. Từ năm 1924 đến 1932, các cuộc khai quật Đông Sơn lần đầu tiên được tiến hành dưới sự điều khiển của L. Pajo – một viên chức Pháp và cũng là người sưu tập cổ vật ở Thanh Hóa. Sự kiện này gây sự chú ý lớn đối với giới khoa học của trường Viễn Đông Bác cổ Pháp. Từ sau đó, hàng loạt cuộc khai quật và nghiên cứu di chỉ Đông Sơn cùng các sưu tập hiện vật ở khắp miền Bắc Việt Nam thu hút sự quan tâm của giới khoa học trong khu vực. Đến năm 1934, Nhà khảo cổ học người Áo R. Heine Geldern đề nghị gọi thời kỳ của nền văn hóa này là “Văn hóa Đông Sơn”. Thuật ngữ này nhanh chóng được thừa nhận và sử dụng rộng rãi song nội dung của nền văn hóa này (chủ nhân, niên đại, đặc trưng…) lại được diễn giải theo nhiều hướng khác nhau.
Sau năm 1954, ngành Khảo cổ học non trẻ Việt Nam tiến hành điều tra cơ bản và nghiên cứu, nhằm làm rõ hơn các nội dung của VHĐS. Hàng loạt các di chỉ được phát hiện ở nhiều địa phương trên toàn miền Bắc, trong đó có những phát hiện quan trọng như các di chỉ Phùng Nguyên (Phú Thọ), Thiệu Dương (Thanh Hóa), Gò Mun (Phú Thọ), Đồng Đậu (Vĩnh Phúc), Làng Vạc (Nghệ An), kho mũi tên đồng ở Cổ Loa, thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái), mộ thuyền Việt Khê (Hải Phòng) v. v. Với nhiều công trình nghiên cứu vừa tổng hợp, vừa chuyên sâu được công bố, các khía cạnh của VHĐS lần lượt được làm sáng tỏ, song vẫn còn nhiều vấn đề tranh luận. VHĐS vẫn là đề tài có sức thu hút lớn của các nhà khoa học trên con đường dài tìm hiểu lịch sử dựng nước của tổ tiên ta.

Trống đồng Đông Sơn

Sau tham luận mang tính tổng hợp trên đây, 13 tham luận đã được trình bày cùng các ý kiến trao đổi tại cuộc tọa đàm, đã làm sáng tỏ hơn nhiều vấn đề khoa học như là những nhận thức cơ bản về VHĐS.

1.Về không gian phân bố

Đến nay, thống kê chưa đầy đủ, gần 400 di tích Đông Sơn được phát hiện và nghiên cứu. Các nhà khảo cổ học đều cho rằng, VHĐS bao quát địa bàn ba vùng: vùng sông Hồng với trung tâm là làng Cả (tỉnh Phú Thọ); vùng sông Mã, sông Chu, với trung tâm là làng Đông Sơn (tỉnhThanh Hóa); vùng sông Cả với trung tâm là làng Vạc (tỉnh Nghệ An); về cơ bản trùng với miền Bắc Việt Nam hiện nay; song cư dân Đông Sơn sống tập trung ở đồng bằng là chính. Quá trình tạo lập VHĐS cũng chính là quá trình các cộng đồng cư dân chiếm lĩnh đồng bằng – nơi có đất đai rộng, thích hợp với việc trồng lúa nước. Giữa ba trung tâm trên có mối liên hệ chặt chẽ, thường xuyên giao lưu, trao đổi với nhau, tạo nên sắc thái Đông Sơn thống nhất trong đa dạng. Sự tồn tại hàng mấy trăm di tích trong một không gian văn hóa với những môi trường sinh thái đa dạng là cơ sở cho việc hình thành các loại hình địa phương tiêu biểu. Tính đa dạng này thể hiện qua địa tầng học, chủ yếu trong di tích Đông Sơn ở Thanh Hóa, ở tổng thể các hiện vật Đông Sơn (chủ yếu ở loại hình trống đồng Đông Sơn); qua các phạm trù, các khái niệm, các nhận thức của các nhà nghiên cứu Khảo cổ học, Sử học, Văn học dân gian (Tham luận – TL của PGS.TS Phạm Minh Huyền, PGS.TS Trình Năng Chung).

Tuy nhiên, tham luận của PGS.TS Phạm Đức Mạnh (Dấu ấn Đông Sơn ở “phương Nam” Việt Nam) đưa ra những chứng cứ khảo cổ học xác đáng về “cuộc di cư của cư dân VHĐS vào miền Trung, vùng các cao nguyên Nam Trung Bộ từ đầu thế kỷ I sau Công nguyên”. Khi đi vào vùng đất mới, cư dân VHĐS đã hòa nhập với cư dân bản địa thuộc Văn hóa Sa Huỳnh, sáng tạo ra một trung tâm khai khoáng luyện kim đúc trống đồng Đông Sơn. Việc phát hiện các “nghĩa trang trống đồng kiểu Đông Sơn” ở Nam Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Nam Bộ …là minh chứng rõ nhất cho sự chuyển cư của cư dân Đông Sơn đến các vùng đất này; từ đó có nhà khoa học đưa ra luận điểm về “Ba khối kết tinh Đông Sơn- Sa Huỳnh- Đồng Nai” với các đặc trưng chung về kỹ thuật tinh chế kim loại màu “kiểu Đông Sơn” lan truyền theo đường bộ, đường thủy…, tạo ra tam giác phát triển Bắc -Trung – Nam của VHĐS.

Đặc biệt, hai tham luận (Giới thiệu sơ lược về những phát hiện VHĐS tại huyện Sepon, tỉnh Savannakhet, CHDCND Lào) của nhà nghiên cứu Lào – TS Thonglith Luangkhot và của các nhà nghiên cứu Campuchia (Trống đồng Đông Sơn ở Đông Nam Campuchia) thu hút sự quan tâm của các giới khoa học Việt Nam trong cuộc tọa đàm; chứng minh VHĐS có phạm vi phân bố và có sức lan tỏa rộng rãi.

2. Về niên đại và các giai đoạn phát triển

Các nhà nghiên cứu Việt Nam đều thống nhất VHĐS tồn tại từ cuối thời đại đồ đồng thau đến đầu thời đại đồ sắt, từ thế kỷ VIII – VII trước Công nguyên (tr. CN) đến thế kỷ I – II sau Công nguyên (s. CN). Tuy nhiên, việc phân giai đoạn còn có những ý kiến khắc nhau. Đa số các ý kiến đều cho rằng, VHĐS trải qua ba giai đoạn phát triển kế tục nhau:

– Giai đoạn sớm (thế kỷ VIII – VI tr. CN) là giai đoạn chuyển tiếp từ Văn hóa Tiền Đông Sơn lên Đông Sơn. Các di chỉ tập trung ở vùng đồng bằng cao xung quanh Hà Nội.

– Giai đoạn giữa (thế kỷ V – III tr. CN) là giai đoạn những đặc trưng cơ bản của VHĐS phát triển rực rỡ. Bộ di vật đồ đồng đặc trưng Đông Sơn phong phú về chủng loại và số lượng. Trống đồng xuất hiện là biểu hiện của kỹ thuật đúc đồng đạt tới đỉnh cao cả về kỹ thuật và mỹ thuật. Bộ đồ sắt cũng được hoàn thiện. Đây cũng là giai đoạn VHĐS có mối giao lưu mạnh với các khu vực lân cận.

– Giai đoạn muộn (thế kỷ II tr. CN – thế kỷ I – II s. CN) xuất hiện di tích thành lũy Cổ Loa và các kho vũ khí, mộ thuyền phát triển, trống đồng được phát hiện nhiều…; đồng thời xuất hiện các hiện vật của văn hóa Hán ở lớp trên của VHĐS và trong các ngôi mộ Đông Sơn muộn (TL của Trình Năng Chung và các TL khác).

Tuy nhiên lại có ý kiến chia VHĐS thành 4 giai đoạn ứng với các di chỉ Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun và Đông Sơn), hoặc 5 giai đoạn (TL của Phạm Minh Huyền), hay 6 giai đoạn phát triển (ý kiến trao đổi của Diệp Đình Hoa) dựa trên các loại hình văn hóa địa phương.

3. Về đặc trưng bộ sưu tập hiện vật của VHĐS

Phần lớn hiện vật của VHĐS được phát hiện trong các di chỉ cư trú và khu mộ táng, rất phong phú, gồm nhiều chất liệu khác nhau (đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, đồ xương…). Chiếm số lượng nhiều nhất, đẹp nhất, có tính tiêu biểu trong số các loại hiện vật này là nhóm đồ đồng, được chủ nhân Đông Sơn tạo ra với kỹ thuật đúc điêu luyện và tính thẩm mỹ cao. Hơn 400 trống đồng Đông Sơn được phát hiện được coi là di vật tiêu biểu nhất cho quá trình dựng nước của cư dân Đông Sơn. Ngoài ra còn có các công cụ sản xuất (tiêu biểu là lưỡi cày), dụng cụ sinh hoạt (tiêu biểu là thạp đồng), đồ trang sức, vũ khí (tiêu biểu là mũi tên đồng, giáo…).

4. Cơ sở kinh tế – xã hội của VHĐS

Cư dân Đông Sơn cư trú chủ yếu ở vùng đồng bằng và trung du nên sống bằng nghề trồng lúa với ba hình thức canh tác đất khác nhau: nông nghiệp dùng gậy chọc lỗ ở miền núi, nông nghiệp dùng cuốc ở trung du và nông nghiệp dùng dùng cày ở đồng bằng, trong đó nông nghiệp dùng cày (canh tác lúa nước) là chủ đạo, với trình độ cao, là sự kế tục của nghề nông từ hậu kỳ đá mới. Điều này được chứng minh qua các dấu tích thóc gạo, vỏ trấu, các công cụ (liềm, cuốc, lưỡi cày…), các đồ chứa đựng. Các dấu tích này phù hợp với ghi chép trong các tài liệu thư tịch cổ Trung Quốc. Ngoài lúa nước, cư dân Đông Sơn còn trồng các loại cây củ, cây rau (được chứng minh qua phân tích bào tử phấn hoa).

Thời kỳ VHĐS cũng là thời kỳ các nghề thủ công phát triển mạnh với các nghề luyện kim, đúc đồng, làm gốm, chế tác đá, dệt vải, đan lát, mộc, sơn, nấu thủy tinh… được phát hiện dấu tích trong các di chỉ khảo cổ học (TL của PGS.TS Trình Năng Chung, PGS.TS Trịnh Sinh).

Sự phát triển của các ngành kinh tế tạo tiền đề cho sự phân hóa xã hội. Tham luận của Trịnh Sinh (Hệ thống văn hóa Tiền Đông Sơn – Đông Sơn và vấn đề nhà nước sớm ở miền Bắc Việt Nam) chỉ ra những biểu hiện của phân hóa xã hội qua các dấu tích khảo cổ học, qua thư tịch, từ đó xuất hiện xung đột và chiến tranh, xuất hiện các thủ lĩnh quân sự, liên minh các bộ lạc, dẫn đến sự hình thành quốc gia và nhà nước. 15 bộ hợp thành quốc gia Văn Lang mà sử cũ ghi lại, theo Trịnh Sinh ứng với 11 trung tâm kinh tế – chính trị của VHĐS trên địa bàn lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Chu và sông Lam. Thời kỳ VHĐS cũng là thời kỳ hình thành các phong tục, tín ngưỡng, đời sống tinh thần với các yếu tố được bảo lưu đến ngày nay (TL của Trình Năng Chung, Bùi Xuân Đính).

5. Về chủ nhân của VHĐS

Đây là vấn đề được thảo luận sôi nổi từ trước đến nay cũng như tại cuộc tọa đàm này. Trước đây, nhiều nhà khoa học nước ngoài và một số nhà khoa học Việt Nam cho VHĐS có nguồn gốc bên ngoài Việt Nam, như từ vùng thảo nguyên Âu – Á (Janse, 1947), từ lưu vực sông Hoài ở Trung Quốc (B. Karigen, 1942), hay từ bờ Biển Đen (Geldern, 1951), từ Chiết Giang – Trung Quốc (Đào Duy Anh, 1957), từ ngoài biển và hải đảo (Bình Nguyên Lộc, 1971). Gần đây, trong cuốn Nguồn gốc người Việt – người Mường mới xuất bản năm 2013, Tạ Đức cho rằng, các nền văn hóa Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun – Đông Sơn thuộc hai chủ nhân khác nhau: người Mường (vốn là người Mon, Man hay Mân Việt ở Phúc Kiến – Đông Bắc Quảng Đông) chuyển đến Việt Nam lập ra các văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun; còn chủ nhân đích thực của Văn hóa Đông Sơn là người La Va hay Lạc Việt, từ vùng Chiết Giang đến Việt Nam sau người Mường (cách đây trên dưới 3000 năm). Sự ra đời và phát triển của nền Văn hóa Đông Sơn về cơ bản gắn với các cuộc thiên di của các nhóm Bách Việt từ phương Bắc.

Các tham luận của Nguyễn Khắc Sử (Đi tìm nguồn gốc văn hóa Đông Sơn), Bùi Xuân Đính (Các tộc người thuộc ngôn ngữ Việt -Mường và Văn hóa Đông Sơn) và các tham luận khác kế thừa các thành tựu nghiên cứu khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học… đã chứng minh Văn hóa Phùng Nguyên mang tính bản địa ở Bắc Bộ; được coi là “khúc mở đầu” cho các văn hóa tiền Đông Sơn, tạo ra Phổ hệ Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun – Đông Sơn, mang tính liên tục cho diễn trình hình thành và phát triển VHĐS ở lưu vực sông Hồng; có sự tương hợp giữa địa bàn phân bố của VHĐS với địa bàn cư trú của các tộc người thuộc ngôn ngữ Việt – Mường. Chủ nhân của của VHĐS là người Lạc Việt, tức Việt cổ, trước đây được cho là tổ tiên của người Việt và người Mường hiện nay. Tham luận của Bùi Xuân Đính còn mở rộng ra với cả người Thổ (gắn với trung tâm làng Vạc ở Nghệ An) và người Chứt. Điều này được minh chứng không chỉ ở chính các di tích khảo cổ học mà còn các phong tục, tín ngưỡng, ở sự tương đồng giữa hoa văn trống đồng Đông Sơn và hoa văn cạp váy Mường, giữa nghệ thuật Đông Sơn và nghệ thuật đầu váy Mường, đặc biệt là chứng tích ngôn ngữ – yếu tố “bảo thủ”nhất trong các yếu tố văn hóa. Giữa tiếng Việt với tiếng Mường, Thổ, Chứt có sự giống nhau đậm đặc cả về âm, thanh điệu, cấu trúc câu và vốn từ vị cơ bản; là sự giống nhau hiếm thấy giữa ngôn ngữ các tộc người. Cách đây khoảng trên dưới 4000 năm, người Việt Cổ có sự phân hóa, dần dần hình thành các khối. Khối chuyển xuống vùng châu thổ Sông Hồng, môi trường sống thay đổi, sau đó chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, dần dần trở thành người Việt (Kinh). Khối sống ở các thung lũng chân núi tỉnh Hòa Bình và một phần tỉnh Thanh Hóa, không chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, trở thành người Mường hiện nay. Khối ở lại khu vực đồi núi tỉnh Nghệ An và một phần Thanh Hóa, hình thành những yếu tố văn hóa riêng để trở thành người Thổ; một nhóm ở Hà Tĩnh, Quảng Bình trở thành người Chứt. Trong bốn tộc người trên, hai tộc Việt và Mường còn đậm dấu vết VHĐS nhất, thể hiện không chỉ ở tiếng nói, mà cả phong tục, tín ngưỡng, (nhất là tục và tín ngưỡng liên quan đến trống đồng), văn học dân gian.

Về một số ý kiến cho rằng, chủ nhân của VHĐS có nguồn gốc bên ngoài, tham luận của Nguyễn Khắc Sử (Đi tìm nguồn gốc VHĐS), chứng minh VHĐS có nguồn gốc từ tiền Đông Sơn với các nền văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun. Chủ nhân của Văn hóa Phùng Nguyên không phải là người Mân (Môn) từ Phúc Kiến chuyển cư bằng đường biển sang, định cư ở Phú Thọ và lập ra văn hóa này mà là các cư dân sở tại ở Bắc Việt Nam, hoặc ở ngay vùng trung du Bắc Bộ, hoặc từ các vùng núi phía Bắc (Sơn La), phía Tây (Hòa Bình) hay Tây Nam (Thanh Hóa)… Tham luận của Trình Năng Chung (Mối quan hệ giữa VHĐS và Văn hóa Khả Lạc ở Nam Trung Quốc) chỉ ra những nét khác nhau cơ bản giữa hai nền văn hóa này, thể hiện qua các yếu tố: nghề trồng lúa, đồ gốm, muôi đồng, đồ trang sức, bộ sưu tập nhạc khí ở mộ táng, bộ sưu tập vũ khí, tục chôn cất và mộ táng,…; từ đó đưa ra kết luận, giữa VHĐS và Văn hóa Khả Lạc dù có mối quan hệ nhất định, nhưng về cơ bản là khác biệt nhau; trong sưu tập văn hóa Khả Lạc rất khó tìm được tinh hoa của VHĐS, ngược lại, những ảnh hưởng của dấu ấn Khả Lạc trên đất Đông Sơn rất mờ nhạt, do vậy, luận điểm VHĐS do người Khả Lạc thiên di sang và lập ra là không có cơ sở. VHĐS có quan hệ với Sa Huỳnh, Nam Trung Quốc, các nền văn hóa ở khu vực Đông Nam Á hải đảo và lục địa; song không phải là yếu tố chủ đạo. Cội nguồn của VHĐS nằm trong nội lực của chính các nền văn hóa tiền Đông Sơn; không phải từ các yếu tố xa lạ như các học giả nước ngoài từng suy luận và gần đây một số tác giả trong nước cho rằng văn hóa và con người Đông Sơn là kết quả của sự thiên di. Thời kỳ VHĐS có thể có các nhóm cư dân từ nơi khác đến song không phải là chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa này. Chủ nhân của VHĐS là người Việt Cổ – những cộng đồng đã sinh sống và khai thác ba dòng sông Hồng – Mã – Lam từ khá lâu và đến thời Đông Sơn đã lập ra nhà nước sơ khai Văn Lang – Âu Lạc (TL của Trịnh Sinh).

VHĐS phát triển từ nội lực song cũng một phần nhờ giao lưu với các văn hóa khác. Giao lưu giúp cho VHĐS có thêm sức sống mãnh liệt, hình thành bản lĩnh mang tính cách Việt: năng động, giao lưu rộng mở, nhưng không mất đi bản sắc riêng. Chính điều này làm cho VHĐS tiếp tục tồn tại và phát triển trong giai đoạn đầu thời Bắc thuộc. Sức sống VHĐS chống lại quá trình Hán hóa trong thời Bắc thuộc là phản ánh quá trình đấu tranh của người Việt thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa chống các thế lực phong kiến Hán tộc; trong lúc đó các quốc gia của các nhóm Bách Việt khác ở Nam Trung Quốc hình thành cùng nước Văn Lang lần lượt bị nhập vĩnh viễn vào đế chế Trung Hoa. Điều này được khẳng định qua tham luận của Hoàng Xuân Chinh (Sức sống VHĐS trong nghìn năm Bắc thuộc).

Tóm lại, VHĐS có nguồn gốc bản địa, có nền tảng cơ sở từ thời đại đồ đồng và xa hơn là thời đại đá mới ở Việt Nam; chủ nhân của VHĐS chính là các tộc người thuộc ngôn ngữ Việt Mường hiện nay. Đó là sự khẳng định lại một lần nữa từ cuộc tọa đàm khoa học quốc tế “Văn hóa Đông Sơn và nguồn gốc dân tộc Việt”.

VHĐS là đề tài lớn, hấp dẫn. Cuộc tọa đàm nhỏ này chưa thể giải quyết được các vấn đề còn đang tranh luận. Được biết, sắp tới Viện Khảo cổ học được Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam giao thực hiện chương trình nghiên cứu “Sức sống Văn hóa Đông Sơn”. Viện cũng phối hợp với các đồng nghiệp Lào, Campuchia và Thái Lan thực hiện chương trình nghiên cứu “Hành lang văn hóa Đông Tây”, nhằm làm sáng tỏ hơn các vấn đề về nền văn hóa truyền thống, bản địa của mỗi nước./.

Nguồn tin: vanhoanghean.com.vn

Bảo vật Quốc gia: Mộ thuyền Việt Khê, ngôi mộ thuyền lớn nhất của văn hóa Đông Sơn

Mộ thuyền là một trong những táng tục đặc trưng của văn hóa Đông Sơn. Cho đến nay, mộ thuyền đã được phát hiện trong nhiều di tích Đông Sơn, cung cấp những tư liệu quý báu cho chúng ta tìm hiểu về tính chất cũng như các mối quan hệ của văn hóa nổi tiếng này. Một trong những phát hiện sớm nhất và quan trọng nhất về mộ thuyền trong văn hóa Đông Sơn đó là ngôi mộ Việt Khê (mộ số 2 – M2).

Mộ Việt Khê M2 được phát hiện vào năm 1961 cùng với 4 mộ thuyền khác tại một cánh đồng ven sông Hàn, thuộc thôn Ngọc Khê, xã Phù Ninh, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Trong 5 ngôi mộ, mộ Việt Khê M2 là quý giá nhất bởi còn khá nguyên vẹn và có nhiều đồ tùy táng, với hơn 100 hiện vật chôn theo.


Mộ Việt Khê được phát hiện tại công trường đào đất Việt Khê, xã Phù Ninh, huyện Thủy Nguyên,

thành phố Hải Phòng năm 1961

Đây là ngôi mộ thuyền lớn nhất của văn hóa Đông Sơn, làm từ thân cây khoét rỗng, có hình dáng như một chiếc thuyền độc mộc với một đầu to, một đầu nhỏ. Quan tài có tiết diện hình tròn, gồm có phần thân và phần nắp, dài khoảng 4,76 m, cao khoảng 0,6 m. Mặt trong của quan tài được khoét rất đều và đẹp, nhưng mặt bên ngoài chỉ được bóc lớp vỏ cây chứ không có vết chế tác.


Mộ thuyền Việt Khê, Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2.500 – 2.000 năm. Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2013

Đây cũng là ngôi mộ thuyền có nhiều đồ tùy táng nhất trong văn hóa Đông Sơn, với hơn 100 hiện vật, bao gồm đồ đồng, đồ sơn, một số đồ tre gỗ và da, nhưng không thấy có đồ sắt và đồ gốm. Những đồ tùy táng này được sắp xếp như sau: ở đầu to xếp những hiện vật cỡ lớn như trống, thạp, bình, đỉnh; ở đầu nhỏ đặt các công vụ và vũ khí như rìu, đục, dao găm; ở giữa có chuông, khay, thố và một mảnh da có sơn, dọc hai bên đặt các loại giáo có cán và bơi chèo bằng gỗ; dưới đáy quan tài còn có nhiều đồ đan, vải đã bị mục nát. Trong những đồ tùy táng này, bên cạnh các hiện vật đặc trưng của văn hóa Đông Sơn còn có các hiện vật phản ánh sự giao lưu, giao thoa văn hóa như kiếm, chuông, dao gọt hay khay.

Một số đồ tùy táng mộ thuyền Việt Khê:


Muôi đồng trang trí hình người thổi khèn


Muôi đồng hình tẩu


Đỉnh đồng


Bình đồng


Thạp đồng


Thố đồng


Âu đồng


Rìu đồng


Dao đồng


Giáo đồng


Trống đồng


Mặt trống đồng

Dựa trên kĩ thuật chế tác quan tài và đặc trưng đồ tùy táng, có thể định niên đại mộ Việt Khê M2 ở vào khoảng thế kỷ 3 – 2 trước Công nguyên.

Việc phát hiện mộ thuyền Việt Khê có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó không chỉ là nguồn tài liệu quý giá để nghiên cứu về táng tục và táng thức của cư dân Đông Sơn, mà còn là cơ sở để nghiên cứu về lịch sử hình thành giai cấp trong xã hội Đông Sơn, về mối quan hệ văn hóa giữa khu vực Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc, hay về các ngành nghề thủ công truyền thống.

Với những ý nghĩa đó, mộ Việt Khê M2 đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia vào năm 2013. Hiện nay mộ Việt Khê M2 đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Hà Nội) và luôn là một điểm dừng thú vị, hấp dẫn đối với khách tham quan trong và ngoài nước./.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Sưu tập trang sức văn hóa Đông Sơn tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Văn hóa Đông Sơn được phát hiện đầu tiên vào năm 1924 bên bờ sông Mã thuộc làng Đông Sơn, huyện Đông Sơn, nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa. Cho đến năm 2014, quá trình phát hiện và nghiên cứu Văn hóa Đông Sơn đã tròn 90 năm. Trải qua gần một thế kỷ, với những thành tựu của khảo cổ học, chứng cứ về Văn hóa Đông Sơn, một thời kỳ phát triển rực rỡ trong lịch sử dân tộc Việt Nam được nhiều chuyên gia, cũng như công chúng trong và ngoài nước hoàn toàn thán phục. Đây cũng là thời kỳ tạo tiền đề cơ sở vật chất cho sự ra đời nhà nước đầu tiên – nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, và là nền tảng hình thành truyền thống văn hóa Việt Nam.

Văn hóa Đông Sơn được phân bố chủ yếu ở 3 lưu vực sông chính đó là sông Hồng, sông Mã và sông Cả, thuộc các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Về niên đại, tồn tại trong khung thời gian từ cuối thiên niên kỷ I trước Công Nguyên đến thế kỷ 2 sau Công Nguyên. Văn hóa Đông Sơn hình thành và phát triển trên nền tảng của những văn hóa tiền Đông Sơn (Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun), cách ngày nay 4.000 đến 2.500 năm.

Hiện nay, số lượng di vật đồ sộ thuộc Văn hóa này được lưu giữ ở các bảo tàng trong nước và nước ngoài, các sưu tập tư nhân, nhưng có lẽ Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là một trong những đơn vị lưu giữ nhiều hiện vật Văn hóa Đông Sơn nhất, gồm các loại hình như: đồ dùng sinh hoạt, công cụ lao động, vũ khí, nhạc khí và đồ trang sức. Mỗi sưu tập đều có những chức năng sử dụng khác nhau, ẩn chứa trong mình những ý nghĩa sâu sắc, từ đó phản ánh nhiều khía cạnh trong đời sống của cư dân xã hội đương thời.

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả muốn giới thiệu đến công chúng một sưu tập hiện vật đặc sắc: “Sưu tập trang sức Đông Sơn” hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Sưu tập không những đa dạng về loại hình, mà còn phong phú về chất liệu như đồng, đá, mã não, thủy tinh,…trong đó trang sức đồng chiếm số lượng nhiều hơn cả.

Văn hóa Đông Sơn là thời kỳ nở rộ của các sản phẩm đồng thau, với sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật đúc đồng, những sản phẩm đồng đã dần chiếm ưu thế trong đời sống của cư dân Đông Sơn. Trang sức bằng đồng được tìm thấy khá nhiều trong các di chỉ thuộc Văn hóa này, đa dạng về loại hình và kiểu dáng như: vòng (gồm vòng ống chân, vòng ống tay, vòng trổ thủng, vòng hình sống trâu, vòng có mặt cắt ngang hình bầu dục, hình tròn, hình lòng máng,…) trâm cài, khóa thắt lưng,… Một trong những loại hình đồ trang sức đồng được cư dân Đông Sơn ưa chuộng nhất là vòng ống. Vòng thường có hình nón cụt hay hình trụ rỗng,… trên thân có những đường gờ nổi song song với nhau, các đường chỉ chìm, đường tròn tiếp tuyến có chấm giữa, hoa văn sóng nước, ở một hay hai đầu thường được trang trí hoa văn hình bông lúa, hình chữ S,…Vòng ống loại này thường có một rãnh hở để điều chỉnh độ rộng khi đeo. Nhiều chiếc vòng ống, ở vành miệng và thân được gắn nhạc đồng, chứng tỏ, ngoài chức năng làm đẹp, những chiếc vòng ống này còn là loại nhạc cụ độc đáo, đặc biệt trong những lễ hội. Bởi khi múa, những quả nhạc đồng (lục lạc) có kích thước xấp xỉ bằng nhau, đã rung đập vào nhau hay đập vào thân vòng tạo nên những âm thanh vui nhộn. Những lục lạc đồng không chỉ được gắn trên vòng ống, các nhà nghiên cứu còn bắt gặp chúng được gắn trên một số hiện vật khác của Đông Sơn tìm thấy trong các di chỉ ở Làng Vạc (Nghệ An) như chuông đồng, muôi đồng, xà tích, khuyên tai, nhẫn, khóa thắt lưng. Điều đó càng chứng tỏ đời sống của cư dân dân Đông Sơn gắn liền với âm nhạc và nhảy múa, đặc biệt, trong những dịp hội hè, tế, lễ. Những hình ảnh này đã được khắc họa trên một số trống đồng Đông Sơn như hình người đội mũ lông chim hóa trang nhảy múa, qua những khối tượng như: tượng người cõng nhau thổi khèn (Bảo tàng Lịch sử Quốc gia – Bảo vật Quốc gia năm 2012), hay qua tượng người thổi khèn trên cán muôi đồng trong mộ thuyền Việt Khê,…. Trong khi múa, có nhiều nhạc khí đệm theo như: trống, chiêng, khèn,…và trong một dàn nhạc có nhiều khạc khí như vậy thì vòng ống gắn nhạc có tác dụng làm cho tiết tấu bản nhạc thêm vui tươi, nhộn nhịp. Vòng ống chân, ống tay còn có chức năng chống đỡ những vật nhọn, nặng đâm vào cổ tay, cổ chân. Đặc biệt, đối với đàn ông, nó như một thứ giáp chắn khi ra trận. Nhiều dân tộc còn đeo nhiều vòng ở cổ tay, cổ chân để tránh vắt cắn khi đi rừng.


Vòng tay hình sống trâu trang trí trổ thủng, đồng

Người Đông Sơn rất thích đeo nhiều trang sức, ngoài trang sức ở tai, cổ, tay, thì họ còn quan tâm đến mái tóc,. Những chiếc trâm cài đầu có chất liệu đồng tìm thấy trong các di chỉ Văn hóa Đông Sơn cũng là loại hình trang sức mang đặc trưng của cư dân thời kỳ này. Ngoài chức năng giữ cho mái tóc gọn gàng, trâm cài còn là vật trang trí, tô điểm cho mái tóc. Những phụ nữ quý tộc thường cài những loại trâm đẹp, có kích thước lớn, điển hình như chiếc trâm hình chữ P (gần giống hình chiếc vợt cán dài), mang ký hiệu LSb 24291, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia nhượng lại của ông Triệu Văn Ánh ở Hà Nội năm 1999.


Trâm cài tóc, đồng

Bên cạnh đó, khóa thắt lưng cũng là loại hình trang sức bằng đồng độc đáo của các thủ lĩnh, quan lại và những người giàu có thời kỳ này. Trên khóa thắt lưng thường trang trí những đường xoắn ốc, trang trí hình chữ S, có khóa thắt lưng gắn thêm lục lạc, và có những khóa thắt lưng trang trí cá sấu, hình rùa. Những con vật thể hiện cho sự dũng mãnh của các thủ lĩnh thời Đông Sơn.

Như vậy, những đồ trang sức này không chỉ có chức năng làm đẹp mà nó còn đóng vai trò quan trọng làm phong phú đời sống nghệ thuật, tinh thần và tâm linh của con người.

Bên cạnh những đồ trang sức bằng đồng, loại hình trang sức đá cũng được cư dân Đông Sơn ưa chuộng, gồm các loại hình như vòng tay các loại, khuyên tai, hạt chuỗi,…với kỹ thuật khoan tách lõi, mài, giũa, đánh bóng,… Có lẽ khuyên tai đá hình vành khăn là loại hình phổ biến của cư dân Đông Sơn. Loại đá được người Đông Sơn lựa chọn làm đồ trang sức là các loại đá trắng, xanh, có vân, xám, vàng nâu, nổi bật nhất là màu đỏ của mã não, xanh mát của đá ngọc hay trong suốt của thạch anh. Như vậy, để làm đẹp, người Đông Sơn không chỉ chế tạo ra các loại hình trang sức độc đáo, mà còn chú trọng về màu sắc của chúng, bởi chúng góp phần tôn thêm vẻ đẹp cho bản thân họ. Đặc biệt, trong Văn hóa Đông Sơn có những hạt chuỗi đá dài 3 – 4cm, được mài vát 2 đầu, đây là loại hạt chuỗi không phải để đeo ở cổ, mà theo một số tài liệu dân tộc học thì chúng được đeo ở tai, có lỗ ở giữa để cắm giải tua hay lông chim để trang trí.


Khuyên tai hình vành khăn, thạch anh

Ngoài những trang sức bằng đồng, đá, cư dân Đông Sơn còn sử dụng đồ trang sức bằng thủy tinh. “Sản xuất thủy tinh là một nghề hoàn toàn mới, chỉ ra đời vào thời Đông Sơn, có ý kiến nói đến sự ra đời sớm của trung tâm chế tạo thủy tinh Sa Huỳnh và ảnh hưởng lan tỏa của nó đến các vùng xung quanh,… Như vậy nghĩa là nghề làm thủy tinh Đông Sơn có nguồn gốc hay ít nhất thì cũng chịu ảnh hưởng của nghề thủy tinh Sa Huỳnh”. [Hà Văn Tấn (1994), Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội]. Trang sức có chất liệu thủy tinh đang trưng bày và giới thiệu tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia gồm: hạt chuỗi, vòng tay, khuyên tai,… trong đó những chiếc vòng tay được xem là một trong những loại hình tiêu biểu.

Tuy kỹ thuật chế tác thủy tinh không phải là thế mạnh của cư dân Đông Sơn, nhưng với sự xuất hiện của đồ trang sức bằng thủy tinh trong văn hóa này cho thấy: cư dân Đông Sơn ngay từ rất sớm đã có sự giao lưu, trao đổi, cả về kỹ thuật và hàng hóa với các vùng trong khu vực.

Vậy những đồ trang sức đa dạng về chất liệu, phong phú về kiểu dáng, tinh xảo về hoa văn này đã được người Đông Sơn sử dụng như thế nào? Điều đó được phản ánh qua những khối tượng tròn trang trí trên thạp đồng, trên cán dao găm,… Những khối tượng người trang trí ở cán kiếm, cán dao găm đồng được mô tả rất chân thực và sống động như hình người đàn ông mặc khố, đứng chống nạnh, tóc búi tròn, đôi vòng tai to chấm xuống vai, tay đeo vòng, cổ đeo vòng dài xuống đến ngực. Đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ trang trí trên cán kiếm được phát hiện ở núi Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hóa) thể hiện một vẻ đẹp quý phái. Với mái tóc búi cao hình búp sen, cổ đeo hạt chuỗi dài đến bụng, vòng tai to chấm vai, hai tay đeo vòng. Qua đó cho thấy, thời kỳ này đồ trang sức được cư dân Đông Sơn khá ưa chuộng và sử dụng phổ biến cho cả đàn ông và phụ nữ. Tuy nhiên, cách trang sức của đàn ông và phụ nữ có đôi chút khác nhau, phụ nữ thường đeo khuyên tai to, nặng, dài chấm xuống vai, nhiều tượng Đông Sơn còn phát hiện họ đeo nhiều chiếc khuyên tai móc vào nhau, còn đàn ông thì đeo những chiếc khuyên nhỏ hơn, nhìn nghiêng mới thấy. Những tượng Đông Sơn phát hiện được cho đến nay mới chỉ thấy tượng phụ nữ đeo chuỗi hạt, và thường đeo nhiều chuỗi, chuỗi trong cùng sát vào cổ, chuỗi ngoài cùng chấm đến bụng, loại hình trang sức này chưa thấy ở tượng đàn ông.

Qua số lượng di vật trang sức tìm thấy trong Văn hóa Đông Sơn, chúng ta có thể hiểu, đời sống vật chất của cư dân thời kỳ này đã khá cao, từ đó họ mới có thể tập trung, dành nhiều tâm huyết và thời gian để cho ra đời nhiều loại hình trang sức cầu kỳ, tỉ mỷ và đẹp đến như vậy. Cùng với việc phản ánh sự phong phú trong đời sống tinh thần, những đồ trang sức này còn cho thấy một trình độ kỹ thuật, tư duy, thẩm mỹ trong luyện kim đúc đồng, cũng như chế tác đá của cư dân thời kỳ này.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Những bằng chứng về nghề luyện kim đúc đồng trong văn hóa Đông Sơn

Văn hóa Đông Sơn (khoảng từ thế kỷ thứ 8 – 7 trước Công Nguyên cho đến thế kỷ thứ 1 – 2 sau Công Nguyên) là một nền văn hóa khảo cổ học thời đại kim khí ở Việt Nam, được các nhà khảo cổ học đặt tên dựa vào sự phát hiện ngẫu nhiên một nhóm đồ đồng cổ vào năm 1924 tại làng Đông Sơn ở ven Sông Mã, nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa, bắc Trung bộ Việt Nam.

So với các nền văn hóa đồng đại khác ở Miền Trung Việt Nam và trong khu vực Đông Nam Á, văn hóa Đông Sơn nổi trội hơn cả ở bộ sưu tập hiện vật đồng thau, mặc dù đồ sắt cũng đã xuất hiện trong nền văn hóa này. Qua thống kê, tỷ lệ đồ đồng trong văn hóa Đông Sơn chiếm tới gần 90% trong tổng số hiện vật các chất liệu. Số lượng hiện vật đồng được tìm thấy cũng đã lên tới hàng vạn tiêu bản, thuộc nhiều loại hình khác nhau, đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu sản xuất, đời sống của cư dân Đông Sơn.

Đồ dùng sinh hoạt có thạp, thố, bình, lọ, âu, ấm, muôi, thìa, bát, đĩa, đèn thắp sáng,… Công cụ làm nông nghiệp, trồng lúa nước có các loại rìu để khai hoang và các loại lưỡi cày, cuốc, xẻng, mai, thuổng… để làm đất. Đặc biệt, người Đông Sơn đã biết làm ra những chiếc liềm để gặt hái cho năng suất cao hơn hẳn những chiếc nhíp thời tiền Đông Sơn chỉ ngắt được từng bông lúa một. Đối với nghề mộc thì có các loại đục vũm, đục bẹt với nhiều kiểu dáng dài ngắn, thon bè thích hợp với từng kỹ thuật đục chạm khác nhau,…

Khảo cổ học cũng đã chứng minh nghề dệt vải khá phát triển khi tìm thấy dấu tích vải và công cụ dệt vải. Bên cạnh những chiếc dọi xe chỉ bằng gốm là một số loại công cụ chuyên dụng bằng đồng như các loại dao, bàn chải. Đáng chú ý có những chiếc dao găm chuôi bẹt, trên một mặt chuôi có những gai nổi nhỏ giống như gai trên bàn chải. Có thể nói, đây là loại công cụ chuyên dùng trong nghề dệt kết hợp cả hai chức năng chải, cắt… Bộ sưu tập dụng cụ săn bắn và vũ khí đồng Đông Sơn có đầy đủ các loại vũ khí tấn công, phòng ngự, đánh xa, đánh gần như giáo, dao găm, rìu chiến, lao, mũi tên, lẫy nỏ, tấm che ngực,… Các loại khác như nhạc khí, vật dụng nghi lễ, đồ trang sức, nghệ thuật tượng tròn,… cũng không những nhiều về số lượng mà còn đa dạng về loại hình, kiểu dáng, hình thức thể hiện,…


Lưỡi cày đồng Cổ Loa

Một câu hỏi được đặt ra là, đồ đồng Đông Sơn là sản phẩm chế tác của chính cư dân Đông Sơn hay được du nhập từ bên ngoài? Cho tới nay, nhiều bằng chứng khảo cổ học thuyết phục chứng minh việc đúc đồng tại chỗ của cư dân Đông Sơn đã được tìm thấy. Đó là những chiếc khuôn đúc đồng bằng đá cát, đất nung và nồi nấu đồng bằng đất sét trộn vỏ trấu, bã thực vật phát hiện được ở Làng Cả (Phú Thọ), Làng Vạc (Nghệ An) và nhiều di tích khác,… Khuôn đúc hở (một mang) dùng để đúc hình động vật đã tìm thấy ở Lãng Ngâm (Bắc Ninh). Đồ đồng nhỏ thì được làm từ khuôn 2 mang như khuôn đúc chuông, dao găm, rìu, giáo đồng,…

Trong khu vực Thành Cổ Loa, Hà Nội cũng đã tìm thấy hàng trăm mảnh khuôn đúc mũi tên cùng dấu vết lò đúc. Riêng trống đồng được đúc bằng kỹ thuật khuôn sáp 3 mang, sử dụng một lần, đúc xong phá khuôn để lấy sản phẩm nên dấu tích loại khuôn này rất hiếm gặp. Hiện mới phát hiện một mảnh khuôn đúc trống đồng giai đoạn muộn ở Luy Lâu, Bắc Ninh.


Dấu vết lò đúc đồng ở Thành Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội

Kỹ thuật luyện kim, đúc đồng của người Đông Sơn đã đạt tới trình độ cao đáng kinh ngạc mà những chiếc trống đồng, thạp đồng với kích thước lớn, hình dáng cân đối, hoa văn trang trí hoàn hảo, sắc nét đến từng chi tiết,… là những minh chứng tiêu biểu nhất. Cho tới nay, hàng trăm chiếc trống đồng đã được tìm thấy trong phạm vi phân bố của văn hóa Đông Sơn. Đồng thời, một số trống đồng Đông Sơn điển hình cũng được tìm thấy ở nhiều nơi khác thuộc Đông Nam Á và Nam Trung Quốc. Nhưng những chiếc trống đẹp nhất, hoàn hảo nhất như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà, Cổ Loa chỉ mới phát hiện được ở Việt Nam. Trống đồng Đông Sơn với những nét đặc sắc nói trên, không chỉ là biểu hiện cao nhất của công nghệ đúc đồng mà còn là sản phẩm lao động, tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho trình độ trí tuệ, tài năng sáng tạo tuyệt vời của cư dân Đông Sơn.

Nếu như các văn hóa tiền Đông Sơn như Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun chủ yếu mới dừng lại ở giai đoạn hợp kim 2 thành phần là đồng, thiếc thì tới Đông Sơn đã có bước chuyển biến mang tính đột phá. Họ đã tạo ra cả chục loại hợp kim nhiều thành phần với 3 kim loại chính là đồng, chì, thiếc. Sự có mặt của chì đã làm cho nước đồng láng đều và điền đầy vào mọi ngóc ngách của khuôn, giúp cho cư dân Đông sơn đúc được nhiều loại sản phẩm ưu việt hơn các giai đoạn trước cả về kích thước, kiểu dáng, hoa văn trang trí… Hơn nữa, người Đông Sơn đã biết gia giảm số lượng, tỷ lệ thành phần kim loại trong hợp kim cho phù hợp với từng loại hình sản phẩm, công năng sử dụng. Chẳng hạn, những vật dụng sắc nhọn như đục, rìu, mũi tên, dao găm thì sử dụng hợp kim đồng thiếc. Những hiện vật lớn, hoa văn mảnh mai, tinh xảo đòi hỏi kỹ thuật cao thì đều được đúc bằng hợp kim có chì.


Bộ dụng cụ đúc đồng tìm thấy tại Làng Cả, Phú Thọ

Với sự phát triển đột biến, mạnh mẽ như vậy, ngành luyện kim đúc đồng trong văn hóa Đông Sơn hẳn phải là một ngành kinh tế độc lập, đòi hỏi sự chuyên môn hóa và có sự phân công lao động rõ ràng. Một bộ phận cư dân tách khỏi nông nghiệp để chuyên đi khai mỏ, luyện quặng hoặc đúc đồng. Bằng chứng về sự chuyên môn hóa này là tại khu mộ Làng Cả đã phát hiện ngôi mộ của một thợ đúc đồng, được chôn theo 4 khuôn đúc, gồm 1 khuôn đúc chuông, 1 khuôn đúc rìu gót vuông, 1 khuôn đúc giáo và 1 khuôn đúc chuôi kiếm ngắn. Ngoài ra còn có nồi nấu và rót đồng. Trong lòng chiếc trống đồng Cổ Loa tìm thấy tại cánh đồng Mả Tre, Cổ Loa, Hà Nội năm 1982 được chôn theo rất nhiều lưỡi cày và hàng trăm mảnh đồng vụn cùng nhiều phế phẩm, mảnh vỡ đồ đồng được thu thập lại để tái đúc. Trống Cổ Loa là một trong những chiếc trống đẹp nhất. Từ đó có thể thấy, chủ nhân trống Cổ Loa phải là người có quyền lực, giàu có và có thể là một thủ lĩnh luyện kim đúc đồng.

Khi nghề luyện kim phát triển lại tác động tích cực, thúc đẩy các ngành nghề kinh tế khác phát triển theo khi cung cấp các bộ dụng cụ lao động tiên tiến, có hiệu năng cao. Như vậy, có thể nói nghề luyện kim đúc đồng là ngành kinh tế động lực đã tạo ra bước phát triển đột phá về kinh tế, xã hội làm cho văn hóa Đông Sơn thay đổi hẳn về chất, vượt lên hẳn cái nền của các nền văn hóa tiền Đông Sơn. Sự đột phá này là động lực giúp cho kinh tế phát triển, gia tăng giá trị thặng dư dẫn đến nhiều biến đổi sâu sắc về thượng tầng kiến trúc của xã hội Đông Sơn, làm tiền đề hình thành nhà nước sơ khai Văn Lang – Âu Lạc.

Nguồn tin: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia

Vũ khí văn hóa Đông Sơn – nét đặc trưng trong văn hóa người Việt cổ

Sau 90 năm được phát hiện và nghiên cứu, văn hóa Đông Sơn đã được các học giả trong và ngoài nước hết sức quan tâm và nghiên cứu một cách toàn diện. Các di tích, di chỉ, hiện vật thuộc văn hóa Đông Sơn là một khối tư liệu đồ sộ cho nhiều thế hệ nghiên cứu khảo cổ học, lịch sử, văn hóa, mỹ thuật… “gặt hái” được nhiều thành công trong các công trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, loại hình hiện vật là vũ khí trong văn hóa Đông Sơn vẫn còn nhiều “ẩn số” để chúng ta khám phá.

Có thể dễ dàng nhận thấy, các loại hình vũ khí là những hiện vật được phát hiện nhiều nhất trong các sưu tập về văn hóa Đông Sơn, vũ khí được phát hiện ở hầu hết các di tích thuộc văn hóa Đông Sơn. Tư liệu từ kết quả khai quật một số di tích văn hóa Đông Sơn tiêu biểu cho thấy số lượng vũ khí đồng thau chiếm trên 50% tổng số hiện vật đồ đồng thu được. Tại một số di tích, vũ khí có số lượng áp đảo so với các loại hình hiện vật khác như di tích Vinh Quang, Làng Cả, Thiệu Dương, Đông Sơn, Làng Vạc,…

Vũ khí ra đời và phát triển trong xã hội loài người vừa mang tính quy luật khách quan chung của xã hội vừa có những đặc điểm riêng. Trong quá trình phát triển chung của mỗi dân tộc hay mỗi một quốc gia, loại hình vũ khí cũng có sự phát triển từ thấp lên cao với những chất liệu khác nhau, vũ khí trong văn hóa Đông Sơn đã được cư dân Việt cổ sản xuất từ hai chất liệu đồng thau và sắt. Trong đó, phần lớn là những vũ khí bằng đồng đã tạo nên những nét đặc trưng văn hóa trên cả ba khu vực phân bố chủ đạo của văn hóa Đông Sơn là trung tâm sông Hồng, trung tâm sông Mã và trung tâm sông Cả.

Vũ khí bằng chất liệu đồng thau trong văn hóa Đông Sơn vừa đa dạng về loại hình, vừa độc đáo vể kiểu dáng và tính năng sử dụng. Có thể khắng định, vũ khí giai đoạn này đã phát triển đồng bộ cả về tính năng và kỹ thuật trong quân sự như: vũ khí đánh gần – vũ khí đánh xa, vũ khí tấn công – vũ khí phòng hộ, vừa có vũ khí thực dụng vừa có vũ khí mang tính chất tâm linh, có tính biểu trưng.

Các loại hình chính gồm: Giáo là loại vũ khí đánh gần bằng động tác đâm, gồm hai bộ phận chủ yếu là bộ phận tra cán và lưỡi sắc nhọn để đâm; Lao là loại vũ khí đánh xa bằng phương pháp phóng, phần lớn có họng tra cán dài hơn mũi lao, mặt cắt ngang họng chủ yếu gần hình bầu dục, cũng có họng hình tròn hoặc bán nguyệt. Lưỡi thường giữa dày, mỏng dần về hai bên; Dao găm là loại vũ khí đánh gần, là một trong các di vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn; Đinh Ba là loại vũ khí đánh gần, thường có chuôi tra cán, song cũng có một vài chiếc là họng tra cán. Chuôi tra cán thường có mặt cắt ngang hình vuông, cũng có đôi chiếc hình tròn, một số chiếc trên chuôi có mấu. Mũi đinh ba có 3 nhánh trên một khung hình chữ U, đầu nhọn, ngạnh; Kiếm là loại vũ khí đánh gần bằng động tác chém, đâm; Qua là vũ khí đánh gần bằng phương pháp bổ, vốn là một đặc hữu của vũ khí Trung Quốc, nhưng những qua phát hiện trong các di tích văn hóa Đông Sơn có phần lưỡi khác biệt trong chi tiết về kiểu dáng cũng như hoa văn trang trí. Qua Có 3 bộ phận chính là lưỡi, chuôi và hồ. Trên hồ thường có 3 hoặc 4 lỗ thủng hình chữ nhật dẹt thẳng hàng là lỗ để xâu dây buộc vào cán. Rìu chiến được xem là di vật quý hiếm của nền văn hóa này, còn có tên gọi khác là dao phạng vì kiểu dáng nó không giống các loại dao bình thường, mà gần giống với loại dao thái phở ngày nay.

Đặc điểm chung của loại dao phạng là kích thước khá lớn, có bản lưỡi rộng, họng tra cán nhô ra ngoài sống lưỡi, họng và lưỡi không nằm trtên cùng một trục dọc; Hàng vạn mũi tên đồng đã được phát hiện tập trung trong một hố nhỏ ở Cầu Vực Cổ Loa. Phổ biến hơn cả là loại mũi tên 3 cánh nhỏ trụ tròn chuôi dài. Ngoài ra còn có loại mũi tên cánh én dẹt và loại mũi tên giống hình giáo lao nhưng kích thước chỉ dài khoảng 6cm, một số loại hình khác chỉ phát hiện được lẻ tẻ; Lẫy nỏ có cấu tạo gồm các bộ phận hộp lẫy nỏ, lẫy nỏ, cò,… được liên kết với nhau bằng các chốt hình trụ; Tấm che ngực là loại hình vũ khí phòng hộ cho các chiến binh giống như áo giáp, chúng là những tấm đồng mỏng, một mặt có 4 quai nhỏ hoặc 4 lỗ nhỏ ở 4 góc để buộc dây, trên một mặt trang trí các hoa văn tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn như văn vạch ngắn song song, văn vòng tròn có tâm, vòng tròn tiếp tuyến, văn chữ X và văn người hóa trang bơi thuyền, văn cá sấu,… Cá biệt có chiếc còn đeo thêm một vài lục lạc, thường phát hiện được trong các ngôi mộ cùng với các loại vũ khí nên các nhà khảo học thống nhất gọi chúng là tấm che ngực; Bao đeo vũ khí có cấu tạo chung gồm có 3 ống đồng gần tròn, ống giữa to và dài hơn 2 ống 2 bên, các ống một đầu to một đầu nhỏ, được gắn trên một tấm đồng phẳng. Trên các ống tròn trang trí hoa văn kỷ hà rất đẹp và khắc thủng các hình tam giác, chữ nhật, dùng để đeo các loại vũ khí nhỏ nhẹ,…


Hộ tâm phiến, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay


Kiếm ngắn, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

Vũ khí đồng thau trong văn hóa Đông Sơn không những nhiều về số lượng, mà còn phong phú đa dạng về loại hình và độc đáo về phong cách. Phần lớn vũ khí không được trang trí hoa văn, song cũng không ít dao găm, dao chiến, qua, giáo, kiếm được trang trí hoa văn đẹp mắt, không chỉ trang trí ở phần cán, mà ngay phần lưỡi cũng được trang trí hoa văn mang đậm sắc thái dân tộc. Trong mỗi loại kể trên lại có nhiều hình dáng khác nhau tạo nên sự đa dạng, phong phú.

Ví dụ như:

* Giáo tuy chỉ có hai bộ phận chính, xong những mỗi bộ phận lại được phân loại thành nhiều kiểu dáng: Bộ phận tra cán hầu hết là họng, chỉ một số ít là chuôi tra cán. Họng tra cán có các loại là họng tròn, họng gần hình bầu dục, họng gần vuông. Về kích thước bộ phận họng đa phần trung bình có độ dài bằng khoảng 1/3 chiều dài lưỡi, nhưng bên cạnh đo lại có loại họng dài tương đương lưỡi, có loại họng ngắn. Về kiểu dáng có loại họng xẻ hình đuôi cá, có loại trên họng gắn một quai tròn nhỏ, có loại họng thông sâu đến nửa chiều dài lưỡi, có loại nông hơn. Giáo chuôi tra cán thì có loại chuôi thẳng, có loại chuôi hơi cong; Lưỡi giáo cũng rất đa dạng như lưỡi hình búp đa, hình lá liễu, hình tam giác rìa lưỡi hai bên thẳng, có loại rìa lưỡi uốn lượn; Trên cánh lưỡi chỗ gần họng xòe rộng, có các lỗ thủng hình chữ nhật dẹt nhưng có loại 2 lỗ có loại 4 lỗ, có loại không có lỗ. Loại giáo có lỗ phần lớn phân bố ở lưu vực sông Mã và các khu vực phụ cận. Có chiếc cánh lưỡi phình rộng 2 chỗ trước lúc thon dần đến mũi nhọn. Phần lớn lưỡi có sống nổi cao chạy dọc lưỡi, nên mặt cắt ngang thường có hình thoi dẹt. Giáo có đủ loại kích cỡ khác nhau, có chiếc dài tới trên 50cm, chiều dài trung bình vào khoảng 20 – 25cm.


Giáo, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

* Lao có hình dạng phổ biến nhất là loại lao lưỡi dẹt có họng tra cán giống như lưỡi giáo, nhưng kích thước nhỏ hơn. Có loại mặt cắt ngang lưỡi gần hình bầu dục, có loại lại có sống nổi cao chạy dọc giữa lưỡi, nên mặt cắt ngang lưỡi có hình thoi dẹt. Đặc biệt hơn có loại lao lưỡi tạo thành hình cánh én gần giống như mũi tên cánh én, nhưng có họng tra cán và kích cỡ to hơn. Bên cạnh đó còn có loại lao ngạnh, có loại 1 ngạnh, có loại 2 ngạnh. Lao ngạnh thường có họng rất dài, trên họng có mấu hoặc một quai tròn nhỏ. Phần lớn họng tròn, song cũng có họng bầu dục dẹt. Có loại họng thon dần về mũi, song cũng có loại phần đầu phình to hơn hẳn thân lao.

* Dao găm có số lượng thì không nhiều lắm nhưng về kiểu dáng thì cực kỳ phong phú và độc đáo. Có nhiều loại dao găm ở đây không giống bất kỳ một loại vũ khí nào của các nền văn hóa khác. Nét độc đáo của dao găm Đông Sơn được thể hiện ở tất cả các bộ phận, từ đốc, cán, chắn tay đến lưỡi, nhưng độc đáo nhất là phần cán. Đốc có loại là đốc hình củ hành thường, hình củ hành có các hàng lỗ thủng hình chữ nhật dẹt. Chắn tay có loại là chắn tay ngang, có loại là chắn tay quặp kiểu sừng trâu. Lưỡi có loại gần hình tam giác, hai cạnh bên thẳng mũi nhọn, có loại hai cạnh bên cong vồng mũi tù, có loại hai cạnh bên uốn lượn mũi nhọn. Cán đơn giản hơn cả là cán hình chữ T. Đẹp và độc đáo hơn cả là cán tượng người và tượng động vật. Dao găm cán tượng người và động vật phát hiện ở nhiều nơi nhưng phong phú và đẹp nhất là bộ sưu tập dao găm ở khu mộ táng Làng Vạc (Nghệ An). Một số dao găm trên cán cũng như hai mặt lưỡi được trang trí hoa văn các vòng tròn có tâm, vòng tròn tiếp tuyến, văn các vạch ngắn song song và văn động vật như cá sấu, hươu nai,…


Dao găm, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

* Qua tuy phát hiện được không nhiều, nhưng về kiểu dáng cũng như hoa văn trang trí khá phong phú đa dạng. Chẳng hạn như chuôi, có chiếc thẳng hàng song song với lưỡi, có chiếc chuôi vểnh lên, có chiếc chuôi lại cụp xuống. Chuôi thường có dáng gần hình thang trên mặt có một số lỗ thủng hình chữ nhật và hình tròn. Lưỡi có chiếc thon nhỏ vuốt nhọn, có chiếc lưỡi cùng với hồ làm thành một hình tam giác. Phần lớn ở chỗ lưỡi nối với chuôi có tấm mang nổi ở cả hai mặt để kẹp cán khi buộc dây, và gần đấy thường có một lỗ thủng tròn. Một số qua trên lưỡi, chuôi và hồ được trang trí hoa văn kỷ hà và hình động vật như hươu nai và cá sấu khá đẹp.

Với sự ra đời và phát triển của nghề luyện đúc đồng, trong giai đoạn văn hóa Đông Sơn việc sản xuất vũ khí đồng thau có điều kiện phát triển nhanh, mạnh. Vũ khí được sản xuất bằng phương pháp đúc bằng khuôn đá hoặc khuôn đất nung, nên sản xuất được hàng loạt, số lượng tăng nhanh. Bằng phương pháp đúc, vũ khí đồng thau được tăng cường độ sắc, nhọn so với các loại vũ khí khác trước đó, nâng cao độ sát thương đồng thời có điều kiện sản xuất ra nhiều chủng loại vũ khí chỉ trong một thời gian ngắn.

Bên cạnh chất liệu đồng, vũ khí Đông Sơn giai đoạn muộn còn xuất hiện những hiện vật chất liệu sắt và một số hiện vật được chế tác kết hợp từ hai chất liệu, thường là lưỡi được làm bằng sắt, chuôi hoặc tay cầm được làm bằng đồng. Tuy số lượng và loại hình những hiện vật vũ khí được làm từ chất liệu sắt hoặc kết hợp đồng và sắt không nhiều, chỉ gồm một số loại giáo, lao, kiếm… song các hiện vật này lại có những giá trị về văn hóa và sử dụng nhất định. Về mặt sử dụng, rõ ràng chất liệu sắt sẽ tạo ra độ cứng và sắc hơn hẳn chất liệu đồng, vì vậy vũ khí có lưỡi bằng sắt là một cải tiến hết sức quan trọng về mặt kỹ thuật chế tác và khả năng chiến đấu của người Đông Sơn. Về văn hóa, các hiện vật đều mang những nét đặc trưng cơ bản của văn hóa Đông Sơn cả về hình dáng cũng như hoa văn trang trí, bộ phận làm bằng đồng của nhiều hiện vật được trang trí hoa văn rất đẹp, đặc biệt là loại kiếm dài có hoa văn “hình thuyền” (có lẽ tên gọi và ý nghĩa của loại hoa văn này còn cần được nghiên cứu thêm nữa) trên đốc kiếm đã thực sự trở thành một loại vũ khí đặc trưng của văn hóa Đông Sơn.

Đặc biệt, vũ khí văn hóa Đông Sơn, bên cạnh những loại vũ khí có tính kế thừa truyền thống từ giai đoạn trước như giáo, lao, qua, mũi tên, rìu chiến, đã có thêm loại vũ khí tiến bộ nhất lúc bấy giờ là nỏ và mũi tên ba cánh – một loại vũ khí vừa để phòng thủ vừa tấn công tầm xa. Những hình ảnh cỗ máy bắn nỏ được đặt trên các lâu thuyền được khắc họa trên hoa văn trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ,… cùng với việc phát hiện được hàng vạn mũi tên đồng ở Cổ Loa và lẫy nỏ trong một số di tích văn hóa Đông Sơn đã phản ảnh lõi lịch sử trong các truyền thuyết về An Dương Vương xây thành Cổ Loa và là minh chứng rất rõ nét về tài bắn nỏ của cư dân Đông Sơn. Nỏ và cách sử dụng nỏ, cách phối hợp, tác chiến của loại vũ khí này trên chiến trường cũng khẳng định rõ nét thêm bản sắc “phương Nam”, trí tuệ và sức mạnh nội lực trong sự phát triển của cộng đồng cư dân khối Bách Việt nói chung, cư dân Âu Lạc – chủ nhân của văn hóa Đông Sơn nói riêng.


Mũi tên, đồng, văn hóa Đông Sơn, 2500 – 2000 năm cách ngày nay

Từ những nét đặc trưng về loại hình, kiểu dáng, số lượng, hoa văn trang trí của vũ khí trong văn hóa Đông Sơn, chúng ta sẽ có được cái nhìn tổng thể về sự phát triển trong chính trị – xã hội, trình độ kỹ thuật, văn hóa của cư dân giai đoạn này. Sự xuất hiện với số lượng áp đảo, phong phú về loại hình và chất lượng của sản phẩm đã khẳng định cư dân văn hóa Đông Sơn đã đạt đến trình độ khoa học kỹ thuật cao, nhất là trong kỹ thuật luyện kim và làm chủ kỹ thuật chế tác sản phẩm từ các vật liệu kim loại. Và theo quy luật phát triển chung, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đương nhiên sẽ là sự phát triển về kinh tế, xã hội và nền tảng chính trị,…

Hiện tượng này được phản ảnh khá rõ trong các khu mộ táng. Phần nhiều mộ táng không có đồ tùy táng hoặc chỉ có một hai đồ gốm, thì một số mộ có kích thước tương đối lớn chôn nhiều đồ tùy táng, trong đó có một số đồ đồng quý hiếm như đồ dùng để tế lễ và đồ trang sức đẹp, đặc biệt có mộ chôn theo một số lượng vũ khí rất lớn. Điều này phản ảnh xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo và trong xã hội đã xuất hiện các giai cấp có địa vị khác nhau, đồng thời dẫn đến sự tranh giành ảnh hưởng trong cộng đồng, quyền lực thống trị trên một vùng lãnh thổ nhất định,… Đây cũng là nguyên nhân cơ bản để cho các loại vũ khí có điều kiện phát triển về mọi mặt và ngày một trở thành nhu cầu thiết yếu của con người trong giai đoạn này. Cũng theo quy luật phát triển, trên địa bàn phân bố của cư dân văn hóa Đông Sơn, dần dần hình thành những liên minh bộ lạc và hình thức Nhà nước sơ khai mà đỉnh cao là Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng đã ra đời. Và ngay từ buổi bình minh của dân tộc Việt, ông cha chúng ta đã phải liên tục chống lại cũng như đánh thắng nhiều kẻ thù nhăm nhe xâm lược và thôn tính. Như vậy, sự phong phú, đa dạng của vũ khí văn hóa Đông Sơn đã trở thành minh chứng chủ đạo cho một giai đoạn lịch sử hết sức quan trọng – giai đoạn dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Viện Khảo cổ học – Khảo cổ học Việt Nam, Tập II/Thời đại kim khí Việt Nam. NXB KHXH., Hà Nội, 1999.

2. Hà Văn Tấn – Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam. NXB KHXH./ 1994

3. Phạm Minh Huyền – Văn hóa Đông Sơn tính thống nhất và đa dạng. NXB KHXH, 1996.