Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc 65 Lý Tự Trọng Quận 1, trên khuôn viên rộng 2 ha, giới hạn bởi bốn con đường Lý Tự Trọng, Pasteur, Lê Thánh Tôn và Nam Kỳ Khởi Nghĩa.
Chỉ trong năm 1945, tòa nhà đã năm lần thay đổi chủ nhân. Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, Thống đốc Yoshio Minoda (người Nhật) chiếm dinh này. Tháng 7 năm đó, phát xít Nhật mới giao dinh này cho chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim. Viên Khâm sai Nam bộ Nguyễn Văn Sâm ở chẳng bao lâu thì ngày 25-8-1945, lực lượng cách mạng hạ cờ quẻ ly kéo cờ đỏ sao vàng và từ đây tòa nhà trở thành trụ sở của Ủy ban Hành chánh Lâm thời Nam bộ, rồi của Ủy ban Nhân dân Nam bộ. Ngày 10 -9 -1945, Trung tá B. W Roe (phái bộ quân sự Anh) ngang ngược chiếm dinh, buộc Ủy ban Nhân dân Nam bộ phải dời về dinh Đốc lý (nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ hí Minh). Tòa nhà do kiến trúc sư người Pháp – Foulhoux vẽ kiểu và thiết kế, được xây dựng năm 1890 theo kiểu cổ điển – phục hưng: mặt tiền của tầng lầu mang đường nét Tây phương, nhưng phần mái lại mang dáng dấp Á Đông. Mục đích ban đầu của tòa nhà là Bảo tàng Thương mại trưng bày những sản vật trong nước. Vì thế ở hai bên cửa chính có hai tượng nữ thần Thương nghiệp và Công nghiệp và các phù điêu trang trí đắp nổi đều lấy biểu tượng thần thoại Hi Lạp cùng với cây cỏ và thú vật vùng nhiệt đới. Nhưng khi xây xong, tòa nhà trở thành tư dinh Thống đốc Nam kỳ Henri Eloi Danel.
Sau khi chiếm lại Sài Gòn, từ ngày 23-5-1947, Pháp giao dinh này cho Lê Văn Hoạch làm trụ sở chính phủ Nam kỳ tự trị và sau đó chuyển cho Trần Văn Hữu làm dinh Tổng trấn (sau đổi thành Thủ hiến) Nam phần (từ 2-6-1948).
Sau hiệp định Genève 1954, Ngô Đình Diệm dùng tòa nhà này làm dinh Quốc khách. Ngày 27-2-1962, dinh Độc Lập bị ném bom, Ngô Đình Diệm dời phủ tổng thống sang đây. Hai mươi tháng sau, ngày 1-11-1963, quân đội Sài Gòn làm đảo chính, Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Năm 1966, dinh Độc Lập xây lại xong, tòa nhà này được làm trụ sở của Tối cao Pháp viện. Sau ngày 30-4-1975 ít lâu, Ủy ban Nhân dân Thành phố quyết định sử dụng toà nhà này làm Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh ngày 12-8-1978, đến ngày 13-12-1999 được đổi tên thành Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh như hiện nay.
Nội dung trưng bày gồm 9 phần cố định.
1. Phòng “Thiên nhiên – khảo cổ”:
Giới thiệu vị trí địa lý, địa chất, khoáng sản, địa hình, khí hậu, động, thực vật, hệ thống sông ngòi, đời sống của cư dân cổ cách đây 3000 – 2000 năm với những công cụ lao động: rìu đá, cuốc đá, trang sức, đồ minh khí, hình thức mai táng tìm được ở các di tích khảo cổ Bến Đò, di tích Gò Sao, Rỏng Bàng, Gò Cát, Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt, Giồng Am, các di tích trong nội thành của thành phố Hồ Chí Minh.
2. Phòng “Địa lý – hành chính Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh”:
Với sưu tập bản đồ, biểu đồ, hình ảnh, hiện vật phòng trưng bày khái quát quá trình hình thành và phát triển của Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh về mặt địa lý, hành chính. Từ một đô thị được quy hoạch cho 50.000 dân đến hiện nay thành phố có trên 6 triệu dân. Các bản đồ cổ lập nên từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVII, cho thấy mạng sông rạch là yếu tố cơ bản của cấu trúc thành phố. Hiện nay, hệ thống sông rạch ấy được thay thế bằng những đại lộ (đường Hàm Nghi, Nguyễn Huệ…)
3. Phòng “Thương cảng, Thương mại – dịch vụ”:
Với hơn 527 hiện vật, 36 ảnh và 10 bản đồ, bảng trích phòng trưng bày “Thương cảng – thương mại dịch vụ Sài gòn – thành phố Hồ Chí Minh” giới thiệu khái quát về vai trò trung tâm kinh tế của Sài Gòn đối với khu vực phía Nam nói riêng và cả nước nói chung qua các vấn đề: Hệ thống cảng Sài Gòn,chợ Bến Thành và những chợ xưa, cửa hàng chạp phô của người Hoa xưa, các hiện vật đo lường xưa nay, hệ thống giao thông: với các bến xe, ga tàu hỏa, sân bay…
Giới thiệu một số nghề thủ công truyền thống và đôi nét về công nghiệp tại Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Với gần 300 hiện vật, hình ảnh trưng bày về các nghề gốm, nghề đúc đồng, nghề kim hoàn, nghề dệt, nghề chạm khắc gỗ… Một số cơ sở công nghiệp đầu tiên của thành phố những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các khu công nghiệp tập trung giai đoạn 1954 – 1975, các khu công nghệ cao hiện nay….4. Phòng “Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp” :
5. Phòng “Văn hóa Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh”:
Giới thiệu phong tục, tín ngưỡng, nghệ thuật và giáo dục của Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh. Phòng trưng bày mô tả đám cưới truyền thống của bốn nhóm dân tộc Việt, Chăm, Hoa và Khmer, tục ăn trầu, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ Thành hoàng, thờ Thổ Địa – thần Tài, sưu tập nhạc cụ , trang phục, đạo cụ và hình ảnh của một số vở cải lương nổi tiếng của sân khấu cải lương , nghệ thuật sân khấu truyền thống của dân tộc Khmer, đặc biệt phòng trưng bày còn giới thiệu các tư liệu về nền giáo dục ở Sài Gòn – nơi truyền bá chữ quốc ngữ và báo chí được xuất bản đầu tiên tại Việt Nam.
7. Phòng “Đấu tranh cách mạng 1930 – 1954”:
Nêu bậc các phong trào đấu tranh chính trị từ khi có Đảng, gương hy sinh của Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đ/c Trần Phú, của người thanh niên Lý Tự Trọng hy sinh ở tuổi 17, đó là khởi nghĩa Nam Kỳ ở Bà Điểm, Hóc Môn ngày 23/11/1940 với sự hy sinh của các chiến sĩ Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong… phòng trưng bày tái hiện phần nào quang cảnh ngày độc lập tại quảng trường Norodom – Sài Gòn ngày 2/9/1945 và cuộc kháng chiến 9 năm sau ngày độc lập ấy đến sự kiện vang dội hoàn cầu – chiến thắng Điện Biên Phủ.
8. Phòng “Đấu tranh cách mạng 1954 – 1975”:
Trưng bày các các vấn đề: hội nghị Genève về việc chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương năm ngày 21/7/ 1954, phong trào Đồng Khởi năm 1960, địa đạo Củ Chi, sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam 20/12/1960, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngày 6/6/1969, Hội nghị Paris ngày 27/1/1973, chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, phong trào đấu tranh của các nước trên thế ủng hộ nhân dân Việt Nam.
9. Phòng “Kỷ vật kháng chiến”:
Trưng bày những hiện vật, di vật đồng hành với cuộc sống và chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ, liệt sĩ trong 30 năm kháng chiến trường kỳ gian khổ trên mảnh đất “thành đồng” vì độc lập dân tộc thống nhất tổ quốc, bao gồm các nhóm hiện vật: Di vật của liệt sĩ trinh sát Trung đoàn Gia Định, hiện vật của văn công tiền tuyến, trang bị cá nhân của các chiến sĩ Trường Sơn, máy ảnh, máy quay phim của phóng viên chiến trường, kỷ vật trong tù của các chiến sĩ cách mạng, mô hình bếp Hoàng Cầm, ký họa kháng chiến…
10. Phòng “Tiền Việt Nam”:
Giới thiệu 1086 hiện vật bao gồm sưu tập tiền kim loại, tiền giấy, tiền thưởng qua các thời kỳ lịch sử ở Việt Nam như tiền thời phong kiến (thế kỷ X đến thế kỷ XX), tiền Đàng Trong, tiền thưởng, tiền kim loại và giấy bạc Đông Dương, giấy bạc Việt Nam từ năm 1945 đến nay, vĩ đếm tiền, khối tiền xưa (tiền đựng vào hũ để cất giấu), hình ảnh các công đoạn đúc tiền thời phong kiến, một số văn tự liên quan đến tiền…
Nguồn: http://www.hcmc-museum.edu.vn/vi-vn/tintuc-1030.aspx