Archive | 4 Tháng bảy, 2017
Chuyện về người sưu tầm bình vôi cổ – Nam Định
“Khi sưu tầm đồ cổ, đặc biệt là các món đồ “thuần Việt”, tôi tích lũy được rất nhiều kiến thức, hiểu biết về văn hóa dân tộc. Từ đó có cảm giác gần gũi với những giá trị tinh thần ngàn đời xưa. Sưu tầm đồ cổ cũng giúp cuộc sống của tôi “tĩnh” hơn”, anh Vũ Văn Khánh, số nhà 4/61 đường Tô Hiệu (TP Nam Định) chia sẻ về thú chơi của mình. Gần 20 năm rong ruổi để tìm kiếm, sưu tầm cổ vật, anh Khánh hiện có trong tay hàng nghìn đồ cổ đa dạng: cân, chú tễu, bình vôi, gốm sứ Bát Tràng, gốm đời nhà Thanh… Đặc biệt với khoảng trên 1.000 chiếc bình vôi, anh Khánh là một trong số ít người sở hữu bộ sưu tập bình vôi lớn nhất Việt Nam hiện nay. Continue reading
Nhà sưu tập đồ cổ số 1 Quảng Ngãi
TTO – Nhắc đến tên Lâm Dũ Xênh, người Quảng Ngãi nhắc ngay đó là một người sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn đồ cổ thuộc vào hạng bậc nhất ở tỉnh Quảng Ngãi. Mới ở tuổi 48 nhưng anh đã có hàng ngàn cổ vật, cả những báu vật “độc nhất vô nhị”.
Dụng cụ lao động là đồ đồng tìm thấy tại xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn được anh Xênh sưu tập từ các cơ sở thu mua phế liệu
Mới đây, Lâm Dũ Xênh hiến tặng Nhà lưu niệm cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng (xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi) bộ tiền xưa (tổng cộng 38 tờ tiền giấy) có chữ ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc ông còn làm Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Đến căn nhà 3 tầng khang trang của anh Xênh ở thị trấn Châu Ổ, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi), đập vào mắt chúng tôi là những chum, ché, tiền, rìu, búa, đá, cối… có niên đại từ vài trăm năm đến cả ngàn năm như được anh phân loại, xếp ngăn nắp theo từng thời kỳ lịch sử, từng vùng miền cụ thể.
Anh tâm sự: “Công việc sưu tầm đồ cổ đã ăn vào tận xương tủy mình nên không dứt ra được. Mỗi lần tìm được một cổ vật nào đó, bản thân cảm thấy vui sướng vì mình đã kịp lưu giữ lại được một nét văn hóa của nhân loại”.
Bén duyên với việc sưu tầm đồ cổ hơn 10 năm, hiện Lâm Dũ Xênh là hội viên CLB UNESCO nghiên cứu sưu tầm bảo tồn cổ vật Việt Nam.
Dưới đây là chùm ảnh TTO ghi lại được từ bộ sưu tập đồ cổ của nhà sưu tầm Lâm Dũ Xênh
Anh Xênh đã sưu tập được 150 loại ché cổ khác nhau
Anh Xênh đang sở hữu trên 250 loại tiền cổ, trong đó có 200 loại đúc bằng đồng, 50 loại tiền cổ đúc bằng kẽm của các triều đại phong kiến ở các nước như Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Pháp, Nhật Bản…
Đối với anh Xênh có được những món đồ cổ như thế này không đơn giảnNhững chiếc gương soi mặt được làm bằng kim loại đồng
Trang sức của đồng bào dân tộc
Chiếc trống đồng Đông Sơn được anh Xênh mua về từ một cơ sở thu mua phế liệu với giá 70.000 đồng/kg
Hàng trăm loại ấm chén, dĩa, lọ cổ
Những ống điếu được làm bằng gốm, đồng thời xưa, trên ống điếu đều có chạm trổ hoa văn tinh xảo
Bộ sưu tập đồ vật bằng đá
Trò chuyện với Dương Phú Hiến – “nhà sưu tầm cổ vật bậc nhất Châu Á”
Nhà sưu tầm cổ vật Dương Phú Hiến.
Thời gian qua, dư luận ồn lên rất nhiều câu hỏi về nhà sưu tầm cổ vật Dương Phú Hiến – người được coi là “giàu nhất Việt Nam”, “ông vua đồ cổ ẩn danh”, “người giữ kho báu vật quốc gia”… Phóng viên Lao Động thứ 7 đã có cuộc gặp gỡ ông Hiến để nghe ông trả lời sòng phẳng các vấn đề này.
Thưa ông, được biết gia đình ông chơi cổ vật có truyền thống “cha truyền con nối”. Ông có thể cho biết, ông đã được thừa kế khoảng bao hiện vật?
– Tôi không tính được nhưng đa số là đồ gốm sứ và một số tượng nhỏ, tổng cộng cũng khoảng trên 1 vạn hiện vật, do các cụ để lại từ ngày xưa. Còn đa số về sau này do tôi sưu tầm, trong thời kỳ còn dễ dàng.
Có lần ông trả lời báo chí rằng hiện mình sở hữu khoảng 4 vạn (40.000) hiện vật. Số hiện vật này đã bao giờ được giám định chưa? Ông đếm chúng bằng cách nào? Có liệt kê sổ sách từng loại hay chỉ ước tính số lượng?
– Số lượng thì ước tính thôi vì nhiều quá nên tôi chưa đếm được. Các hiện vật của tôi chưa bao giờ được giám định, chỉ giám định theo yêu cầu từng đợt như dịp đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội thì hơn 1.000 cổ vật được giám định và đưa đi triển lãm, đây là đợt đầu tiên, với sự có mặt của hội đồng giám định quốc gia. Một số đợt Bảo tàng Lịch sử Việt Nam qua chọn một số đồ về để triển lãm cũng có giám định. Còn đồ Lý, Trần của gia đình thì họ cứ đến là “nhíp” thôi chứ chẳng cần phải giám định gì, vì là đồ tốt. Đồ gốm hoa nâu của nhà tôi cũng vậy, là nguyên bản gốc và loại gốm này rất khó bị làm giả.
Rất nhiều người đặt ra câu hỏi: Ông Hiến lấy đâu ra nhiều tiền như thế? Có người còn hồ nghi với khối tài sản của ông. Ông thường không bao giờ tự ái về điều đó. Ông từng cho biết, chơi cổ vật là việc của những người cần có nhiều tiền, thậm chí là rất nhiều tiền?
– Đúng thế. Cần rất nhiều tiền.
Bản thân việc chơi cổ vật của ông được bắt đầu từ truyền thống của gia đình. Ông nội của ông là cụ Dương Lương Quang – một nhà tư sản kinh doanh ôtô. Có lần báo chí đăng tải, cụ Quang đã từng hiến tặng 154 chiếc ôtô cho cách mạng. Cụ Quang có sở thích sưu tập đồ cổ và truyền lại cho bố ông và sau đó đến ông tiếp tục kế nghiệp?
– Ông nội tôi là Dương Phú Hữu, cụ làm nghề bốc thuốc. Cụ Dương Lương Quang là bạn của ông nội tôi, cụ vốn là một nhà tư sản ôtô (trước ở số 25-27 Bà Triệu cũ, thông sang cả Hàng Bài). Tôi có nghe chuyện cụ Dương Lương Quang có tặng 154 ôtô cho cách mạng và cả khu nhà đất số 25-27 Bà Triệu cho nhà nước.
Ông từng cho báo chí biết, việc sưu tập cổ vật của ông cũng chỉ thực sự mạnh mẽ khoảng 30 năm nay, và tiền dành cho thú chơi này chính là nhờ ông bán đất. Có thời gian ông sinh sống tại nước ngoài, dành dụm được ít tiền ông về nước mua hết đất trồng rừng?
– Khi về nước có tiền tôi mua đất dự án Palm, bán rẻ, ngay tại quê tôi – Đại Lải. Hồi đó mua là để trồng rừng, trồng bạch đàn, trồng thông. Đến khi đất có giá thì tôi không dùng nữa và chuyển đổi – cái đó là có thật. Hồi đó chỉ mấy trăm triệu chứ không phải nhiều tiền.
Khi mua đất ông chỉ nghĩ sẽ thu được lợi từ việc trồng cây. Ông cũng không thể ngờ rằng, chỉ một thời gian sau, số đất ấy tăng vọt giá trị, giá thị trường cao gấp cả trăm lần so với số tiền ông bỏ ra mua?
– Cái này đúng rồi.
Ông từng nói chơi cổ vật đã 3 đời – ông nội làm thuốc, cha làm nghề dạy học, dù khi rất nghèo hay đã có tiền thì cả 3 thế hệ vẫn say mê y như thế?
– Chính xác.
Ông từng đổi những cổ vật mà bây giờ giá hàng triệu USD chỉ với… 1 tạ sắn. Ông có thể cho biết hiện vật gì đổi được bằng sắn?
– Thí dụ những pho tượng điêu khắc. Tôi nghĩ rằng nó là vô giá nhưng ngày xưa đổi cho người Trung Quốc, họ đói mình cũng đói thì đổi chỉ thế thôi, hàng tạ sắn khô. Những người Trung Quốc thời cách mạng tư sản 1965 là lúc đỉnh cao nhất họ bài xích văn hoá cổ. Với những người yêu cổ vật thì người ta mang sang. Ví dụ những bức tượng nhỏ này có phải của mình đâu, hầu hết của Trung Quốc. Thời kỳ đó có khi có những hiện vật đổi chỉ một vài kg gạo; có người đổi đồ lagin – tức là khăn mặt mùi xoa, bật lửa hoặc là những nhu yếu phẩm xa xỉ. Những hiện vật đó không phải tự nhiên mà có được.
Người Trung Quốc mang sang, hay ông sang bên đó?
– Hồi đó, tôi ở Cao Bằng, mới học xong đi bộ đội luôn. Tôi đã đổi được cổ vật từ hồi ấy, khi Trung Quốc với mình còn đang quan hệ rất tốt. Hồi đó dân họ đói. Mình có biết gì tiếng Trung Quốc đâu, có người Tày, người Nùng phiên dịch hộ.
Gia đình ông là gia đình tư sản theo cách mạng, hay gia đình nông dân thuần túy?
– Năm 1956 bố tôi bị quy địa chủ, nhưng chỉ đến năm 1957 – sau 1 năm – thì xuống thành phần trung nông.
Ông là cán bộ quân đội cao cấp?
– Hàm thượng tá – bác sĩ khi nghỉ hưu.
Ông có người anh trai ruột là GS Dương Phú Hiệp – nguyên Viện trưởng Viện Triết học?
– Chính xác. Đỉnh cao nhất của anh tôi là cố vấn đổi mới cho cố Tổng Bí thư Trường Chinh. Sau này anh ấy là Tổng thư ký hội đồng lý luận Trung ương.
Một số hiện vật trong bộ sưu tập của ông Dương Phú Hiến, hiện để tại nhà riêng. |
Nhà sưu tầm chẳng ai dại gì mà khoe của
Nhân dịp Đại lễ Phật Đản của Liên Hiệp Quốc lần thứ V tổ chức tại Việt Nam từ ngày 13 tháng 5 đến 17 tháng 5 năm 2008 (Phật lịch 2552) và Kỷ niệm 2.000 năm Phật giáo Việt Nam, tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (Hà Nội) đã trưng bày bộ sưu tập tượng Phật rất quý hiếm của ông mang tên: “Nghệ thuật điêu khắc Phật giáo Châu Á thế kỷ VII-XIX”. Có người nói bộ sưu tập trên 100 tác phẩm nghệ thuật điêu khắc này có những kiệt tác ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của Đạo Phật đã được ông công phu sưu tầm và công bố một cách tập trung, trang trọng, kỳ công, lộng lẫy và nghiêm cẩn; chất liệu lại rất quý hiếm như: Vàng, bạc, hợp kim đồng vàng, ngọc, đá quý, một số ít bằng gỗ quý, gốm… được sưu tầm từ nhiều quốc gia Châu Á?
– Chính xác là như vậy. Bộ Văn hoá kết hợp Hội đồng trị sự giáo hội Phật giáo VN và Hội đồng trị sự Phật giáo Hà Nội có mời gia đình tôi tham gia triển lãm, nhằm tăng tính dân tộc của Phật giáo thì tôi có cho triển lãm, được đánh giá cao, có ghi lại lưu bút một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước cũng như Hà Nội.
Đó là 100 pho tượng Phật đúc bằng vàng như có tờ báo từng phản ánh? Khi triển lãm ông không sợ mất sao?
– Chẳng ai dại gì nói là bằng vàng hay vàng ròng. Tôi đề là các hợp kim vàng hoặc mạ vàng.
Có nhiều tượng trong số đó là vàng ròng không, thưa ông?
– Một số là hợp kim và mạ vàng, chứ tôi không đi phân kim, vì là đồ của nhà, và chẳng ai đem đồ của nhà đi phân kim cả.
Ông có thể cho biết sự thật về 2 chiếc bình quý hiếm “màu vàng” của ông hiện đang triển lãm tại Bảo tàng cổ vật cung đình Huế vừa gây xôn xao dư luận trong những ngày qua? Chúng có phải là bằng vàng thật hay không?
– Cái này là kim loại màu vàng, Huế cũng có biên bản nhận, chứ nếu bằng vàng ròng thì không ai dại gì đem đi triển lãm. Trong quá trình triển lãm họ muốn “demo vật minh chủ” lên thì có thể người ta đề như thế. Mà bản thân bảo tàng Huế điện cho tôi cũng nói rằng, chúng em ở trong này cải chính rồi. Chỉ là đôi lọ hoa màu vàng, có ghi trong biên bản, cũng chưa được giám định bao giờ. Toàn bộ 27 hiện vật triển lãm tại Huế lần này chưa giám định về kim khí, kim loại, chỉ biết rơi vào khoảng thời kỳ triều Nguyễn. Bảo tàng xác định là đồ triều Nguyễn. Không ai bảo đó là vàng ròng và còn chuyện an ninh, an toàn nữa. Nhà sưu tầm chẳng ai dại gì khoe của cả.
Được mệnh danh là người chơi cổ vật bậc nhất Châu Á và chơi gia truyền từ đời nọ qua đời kia, tại sao ông lại để xảy ra chuyện hai bình hoa “bằng vàng” trở thành “kim loại màu vàng” như báo chí đưa tin trong thời gian qua?
– Tôi mới đi mổ mắt về, thông tin này làm tôi giật mình. Cái này có thể có lỗi của tôi một phần và lỗi của bên nhận bàn giao không cụ thể. Biên bản bàn giao trong Huế giữ 2 bản, nhưng của nhà tôi thì thằng cháu trưởng nó cầm.
Thạc sĩ khảo cổ học Nguyễn Anh Thư (Khoa Di sản Văn hóa – ĐH Văn hóa Hà Nội) cho rằng, người chơi cổ vật hiện nay có 3 loại: Loại thứ nhất là thật sự say mê, được gia truyền từ đời nọ qua đời kia, chơi mang tính hệ thống, bài bản, khoa học; Loại thứ hai là những trí thức uyên thâm, không có nhiều điều kiện để sưu tầm nhưng rất am hiểu và rất có tâm; Loại thứ ba đông nhất: Vừa giao lưu vừa buôn bán. Không nên đánh giá thấp họ, vì họ cũng góp phần xã hội hóa việc chơi cổ vật, họ có chân rết thu gom ở khắp nơi. Nhưng cũng nhiều khi sự mưu sinh khiến cho đồ của họ thật giả lẫn lộn, làm mất đi cái “thiêng”, cái “tín” của cổ vật VN với thế giới. Ông có ý kiến gì về quan điểm trên?
– Chính xác. Tôi có trao đổi với chị Anh Thư rồi. Chị Thư nói rất đúng. Như nhà tôi có được bao tiền chỉ dồn vào chơi. Các cụ nói là “nhất cận chi nhì cận thủ”, tức là cái gì tay sờ mắt thấy mới là của mình, còn lại những cái ta nghĩ trong đầu thì chưa phải là của mình. Ông nội tôi dạy như vậy. Tất cả đồ của gia đình tôi đều giữ lại không bán, kể cả những mảnh vỡ.
Gia đình tôi quyết tâm làm bảo tàng tư nhân. Hà Nội và 12 sở ban ngành đã đồng ý rồi. Đất cát thì không vấn đề gì nhưng tài chính để xây 1 bảo tàng mang hồn Việt, mang tính cách Hà Nội thì chưa có.
Được báo chí phong tặng là “người giàu nhất VN”, “ông vua đồ cổ ẩn danh”, “người giữ kho báu vật quốc gia”… ông có ý kiến gì khi báo chí “PR” cho ông những danh hiệu đó?
– Trước tiên tôi phải cảm ơn báo chí nhưng có những cái họ không hiểu, người ta cứ tính 10 cái lỗ 10 con cua, rồi 10 con cua giá thành nhân lên là bao nhiêu… Đồ cổ có những cái là vô giá thật nếu nó là báu vật, bảo vật quốc gia thì ta không suy luận bằng tiền được. Nhưng chưa bao giờ tôi nhận mình giàu nhất VN. Cách báo chí PR là tự nhiên, do họ đến nhà tôi quay phim, chụp ảnh, mỗi tuần của những năm về trước họ cứ đăng ký hết đài này đến đài kia, cũng quay nhiều tập phim theo chủ đề, các báo cũng thế. Tôi thấy đấy cũng là cái tốt trong nghệ thuật làm báo của họ, nhưng cũng phải xem xét lại vì có những cái PR rất có hại cho cá nhân, tập thể hay đất nước.
Xin ông cho biết bộ trang phục của cụ Phan Thanh Giản mặc đi sứ sang Paris năm 1863 để đàm phán xin chuộc lại 3 tỉnh miền đông Nam kỳ có phải là bộ trang phục ông đang cho Bảo tàng cổ vật cung đình Huế mượn triển lãm từ ngày 21.4.2013 đến ngày 21.10.2013?
– Bộ quần áo này tôi mua nguyên gốc của TS Phạm Dũng – nhà sưu tầm kiêm giảng viên trường đại học Văn hoá. Bộ này xác định là của cụ Phan Thanh Giản mặc đi sứ. Bản thân TS Phạm Dũng cũng xác định như vậy, tôi mua năm 2001 thì phải.
Được biết ông là người giỏi võ và có rất nhiều miếng võ gia truyền của dòng họ Dương?
– Ông nội với bố thích cho tôi đi học võ, vào bộ đội thì vào đoàn 33 đặc công cũ, chiến đấu tại Quảng Trị. Võ cũng không phải gì ghê gớm lắm; võ ngày xưa thanh niên thích học, như học nhạc, thể thao… cái chung của thanh niên thời đó.
Ông chơi với rất nhiều văn nghệ sĩ?
– Đúng, cái đó có.
Mỗi khi họ đến chơi và ra về ông lại “dắt vào lưng” mỗi vị 1 lạng cao hổ hảo hạng?
– Cách đây cả chục năm hổ còn rẻ, 80-100 triệu/bộ, thì anh em có chung với nhau. Chứ còn lấy tiền đâu mà dắt lưng tặng cao hổ, cái đó không có. Đấy là 1 ông yêu mình quá, tôi cũng cho ông ý thật. Ông này là đại tá Bá Tỉnh – Tổng cục 2 cũ, hoạ sĩ. Chuyện này ông ấy viết trên báo năm 2004.
Cao hổ của ông từ 1-2 chục năm trước vẫn để được đến tận bây giờ?
– Giờ mình làm gì có. Bây giờ Nhà nước cấm, tôi dại gì nấu mà cũng có đâu mà nấu? Bây giờ muốn xương hổ cũng chẳng có nữa là.
Ngày xưa có dạo ông Phạm Tiến Duật đau cột sống, đi cùng Trọng Khôi, Trần Tiến, Thành Chương lên chơi với tôi, uống rượu cao xong thì Phạm Tiến Duật khỏe, đứng lên đọc thơ. Dạo ấy mấy người hay lên chỗ tôi ở Sóc Sơn (nhà cũ gần sân bay) vào thời kỳ 2002-2004 về trước…
Ông biết cả nghề nấu cao hổ cốt ạ?
– Nấu là thời chiến trong rừng Trường Sơn, khi đó anh em làm gì có thuốc. Chủ yếu là người dân tộc dạy cách nấu cao khỉ toàn tính, cao trăn toàn tính…. Cách nấu thì đơn giản.
Mỗi lạng cao ông tặng bạn bè giá tới 55 triệu đồng?
– Đấy là người ta nghĩ, người ta đoán theo thời kỳ hoặc giá trị nó như thế chứ tôi bán được lạng nào cho ai đâu? Cái giá trị thật bây giờ có khi đến hoặc chẳng đến.
Giữ đồ như giữ mạng sống
Có lần ông nói với báo chí, có những pho tượng ngày xưa không ai nghĩ đó là tượng quý. Thời cách mạng văn hóa, những pho tượng bị sơn đen, ông đem về ngâm xăng, tẩy axêtôn mới biết tượng làm bằng vàng?
– Trước kia tượng nhuộm đen hết, năm 1983-1985 tôi lấy về (gửi từ nhà dân) rửa bằng xăng mới hiện ra cái màu này. Đã ai giám định hoặc phân kim đâu mà biết là vàng? Hoặc những pho tượng ngọc như thế này trước cũng sơn đen hết.
Nếu những pho tượng trên là báu vật của quốc gia hoặc thuộc sở hữu của chùa, ông có tự nguyện trả lại cho Nhà nước và Chùa không?
– Nếu báu vật quốc gia hoặc của chùa về đây nhận dạng ra thì tôi sẵn sàng hiến tặng lại. Đến nay chưa có cái địa chỉ nào mà tôi cũng sưu tập cũng quá lâu rồi. Tượng của Trung Quốc thì không liên quan gì đến đất nước mình. Hầu hết tượng điêu khắc, các tượng kim loại đều là của Trung Quốc.
Ông mê kiếm từ bé, giữ kiếm còn hơn cả mạng sống của mình. Bộ sưu tập kiếm gia truyền được để lại từ mấy trăm năm trước của các đời cụ kỵ, và chủ yếu của Trung Quốc và Nhật. Có những giai đoạn lịch sử, vì lý do khách quan, gia đình ông đã phải bọc số kiếm này lại chôn xuống đất?
– Chính xác. Phải giấu đi. Cho đến bây giờ vẫn là vấn đề nhạy cảm. Theo tôi nghĩ những thanh kiếm mang tính lịch sử nhiều nhất đã triển lãm tại bảo tàng Lịch sử quân sự VN năm 2010 thì song trùng kiếm là quý nhất, dài tới 1,4m, rồi thư hùng kiếm là kiếm có khắc chữ, giá trị như kiếm lệnh.
Bộ sưu tập này đồng hành cùng gia đình ông đã 300-400 năm?
– Có những món các cụ giữ 300-400 năm, như kiếm đồng Đông Sơn, kiếm Chăm. Một số kiếm bao gỗ thì rất gần đây, do tôi giữ.
Xin ông cho biết việc sưu tập hàng trăm thanh kiếm như vậy có vi phạm vào tội tàng trữ vũ khí trái phép hay không?
– Không, tôi đã mở triển lãm tại Bảo tàng quân sự VN, như một vị lãnh đạo đã phát biểu, đây là truyền thống ông cha ta đánh giặc bảo vệ tổ quốc, giữ gìn đất nước. Những kiếm này tước được của địch, hoặc rèn ra để chống giặc ngoại xâm. Theo tôi nghĩ như một nhà sưu tập thì việc lưu giữ kiếm đơn giản là để lại cho con cháu. Còn nếu tôi dùng vào mục đích xấu thì khi đó mới có tội.
Nhân đây tôi muốn cho các bạn xem thanh kiếm Tiên Chu trên 5.000 năm, tìm thấy trong mộ, rất quý, bằng đá ngọc đặc biệt…
Xin cảm ơn ông!
Bộ sưu tập đồ cổ quý giá của anh nông dân Nam Bộ – Bến Tre
Với niềm đam mê gốm sứ cổ, một nông dân ở xã Mỹ Thạnh An, thành phố Bến Tre đã dành hơn 40 năm để sưu tập rất nhiều món đồ cổ quý giá. Đặc biệt, trong bảo tàng cá nhân của ông có hàng ngàn sản phẩm gốm sứ nhiều niên đại của Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên. Continue reading
Lâm Đồng: Bộ sưu tập đồ cổ quý giá trên cao nguyên
Với niềm đam mê sưu tập đồ cổ, anh Nguyễn Văn Tuấn (54 tuổi) đã lặng lẽ đến khắp các con đường, gốc phố, trong các ngôi biệt thự cổ, bãi phế liệu… để tìm mua các hiện vật mang giá trị lịch sử của Đà Lạt với hơn 10.000 hiện vật quý giá.
Trong ngôi nhà riêng tại hẻm số 157/2 Phan Đình Phùng, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, anh Tuấn đã cất giữ hơn 10.000 hiện vật quý giá, với những món cổ vật đi cùng năm tháng gắn liền với thành phố du Đà Lạt.
Anh Tuấn chia sẻ: “Tôi đã dành thời gian hơn 20 năm đi tìm mua và lưu giữ những chiếc bình hoa cổ, bộ sưu tập đèn dầu, máy chiếu phim quay tay, cân phóng xạ, lò sưởi cổ, cúp bóng đá, bình hoa cổ… trong đó có không ít cổ vật”.
Trong hơn 10.000 hiện vật được xếp gọn, món này kề món kia mà anh Tuấn sưu tầm được, có những món cực kỳ quý giá như máy hát đĩa hiệu Pathé lớn nhất Việt Nam ở Đà Lạt, máy tính tiền xưa nhất thế giới có ở Đà Lạt, máy đan len đầu tiên của Đà Lạt…, đã từng ra mắt người dân Đà Lạt và du khách gần xa vào năm 2005 và năm 2008 tại cuộc triển lãm tại hồ bơi Phù Đổng (đường Phù Đổng Thiên Vương), cuộc trưng bày tại khu du lịch Thung Lũng Tình Yêu…
Đặc biệt trong bộ sưu tập của anh Tuấn là toàn bộ những đồng tiền từng lưu hành ở Đà Lạt từ thời phong kiến đến thời Pháp thuộc cho đến nay: Tiền Đông Dương, tiền Bảo Đại, tiền Việt Nam Cộng hòa, tiền Ủy ban trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ngoài ra còn có chiếc máy tính tiền rất xưa, có thể là xưa nhất thế giới, được người Pháp đưa sang sử dụng tại Đà Lạt từ những ngày đầu khi họ đặt chân đến Đà Lạt. Một bộ sưu tập hơn 100 cúp thể thao cổ quý giá, mà rất có thể là không còn tìm thấy chiếc thứ hai ở những nơi khác…. .
Những chiếc cúp bóng đá Đông Dương được vua Bảo Đại “nhượng” lại từ hoàng thân Sihanouk năm 1942; cúp bóng đá Pháp và ba nước Đông Dương năm 1948 – 1949; cúp đua xe đạp ba nước Đông Dương năm 1947; cúp bóng đá Việt Minh (đình chiến) năm 1936 (Coupe de L’Armistice); cúp bóng đá Bưu điện Pháp mở rộng tại Đông Dương đầu thế kỷ 20; cúp điền kinh chạy tiếp sức của Pháp tổ chức tại Đông Dương đầu thế kỷ 20…
Bản sắc “Tiết hạnh khả phong” của vua Bảo Đại ban cho một phụ nữ ở Đà Lạt vào những năm 40 của thế kỷ trước với dòng chữ Hán được nhặt ở đống rác bên đường và hàng ngàn cổ vật có giá trị khác.
Nhìn số hiện vật mà anh Tuấn lưu giữ trong kho chật hẹp được xếp gọn trên những kệ tủ, gốc nhà suốt mấy năm qua ai cũng ngặc nhiên và thích thú như được trở lại với quá khứ của Đà Lạt.
Nguồn: http://www.tintaynguyen.com/lam-dong-bo-suu-tap-do-co-quy-gia-tren-cao-nguyen/136446/
Bộ sưu tập tiền cổ khủng còn nguyên vẹn của đại gia sưu tập ở Bắc Ninh
Trong giới chơi tiền cổ ở Việt Nam không ai là không biết, ông Nguyễn Văn Thạo (49 tuổi, cư trú tại Bắc Ninh) được mệnh danh là “ông vua tiền cổ” không chỉ bởi có số lượng tiền khổng lồ (hơn 6 tấn), từ Thái Bình Hưng Bảo – đồng tiền đầu tiên của triều nhà Đinh đến Bảo Đại Thông Bảo của triều Nguyễn và rất nhiều các loại tiền cổ khác.
Một chum tiền lục giác nguyên khối sau khi được khai quật được đặt lên trên lưng một con rùa được tác bằng gỗ đinh hương.
Nhiều chum tiền xu cổ đủ các loại được khai phá từ nhiều vùng đất tương ứng với các triều đại khác nhau.
Có những chum phải đánh đổi cả gia tài là tiền cầm cố sổ đỏ hay nhiều cây vàng ông Thạo mới có được. Trong số đó có những khối tiền xu rất đẹp.
Trong suốt 20 năm sưu tập, hễ nghe được tiếng ở đâu phát hiện được các loại tiền cổ ông Thạo đều có mặt để thu mua để bổ sung vào bộ sưu tập của mình.
Có những chum tiền bị vỡ, ông tỉ mỉ gỡ những mảnh sành ra để nguyên những mùn đất.
Có những chum đựng tiền còn nguyên dây đay dùng để xâu tiền.
Mùn đất hàng trăm năm chôn dưới lòng đất vẫn còn nguyên.
Những sợi dây đay trường tồn với thời .
Những đồng tiền bên trong gỉ kết thành khối liền với vỏ chum. “Rất có thể nó là khối tài sản được cải táng theo một vị quan chức, vương tộc”.
Ngoài giá trị lịch sử những chum, đồng tiền cổ này còn có giá trị về văn hóa.
Một chum tiền được xếp theo hình lục giác rất chắc chắn.
Để kiểm chứng những đồ vật, ngoài những kinh nghiệm, kiến thức học được thì người chơi cũng cần phải thử nhiều phương pháp khác như đục, khoét vỏ chum làm mẫu.
Ngoài ra, trong bộ sưu tập có nhiều loại tiền kim loại dạng vàng, bạc nén, tiền thưởng vua ban, tiền lưu trữ trong ngân khố với các mệnh giá khác nhau.
Ông Thạo cũng có bộ sưu tập đầy đủ các mệnh gián tiền giấy bạc.
Ông Thạo cho biết, sắp tới anh có dự định sẽ cống hiến một số mẫu tiền làm trưng bày khi dự án thành lập Bảo tàng tiền cổ Việt Nam hoàn thành.
Nguồn: http://thegioidoco.net/threads/bo-suu-tap-tien-co-khung-con-nguyen-ven-cua-dai-gia-suu-tap-o-bac-ninh.82889/
Ngắm kho đồ cổ “khủng” của “vua cổ vật Sài Gòn”
Ông Hoàng Văn Cường được giới chơi cổ vật mệnh danh là “vua đồ cổ Sài Gòn” bởi số lượng cổ vật ông có thuộc loại “khủng”, với đủ loại cổ vật có niên đại từ vài trăm năm như thời các triều Nguyễn, thời Quang Trung… hay cổ vật có niên đại cả ngàn năm ở thời Óc Eo, Sa Huỳnh, Đông Sơn… Có những món đồ sứ men màu lam, chỉ dụ của vua hay những cây đèn dầu được chạm khắc tinh vi, sắc sảo. Những bộ sưu tập độc sắc (chỉ một màu trắng) của các triều đại Tống, Minh, Nguyên, Thanh (Trung Quốc)…
Trong đó, nhiều cổ vật có giá trị “thiên hạ vô đối” như chiếc sập có tuổi đời 300 năm của một viên quan người Huế có giá trị khoảng 40 tỷ đồng; những chiếc long sàng của vua Dục Đức, của Hoàng Thái hậu Từ Dũ; bộ sưu tập 25 cây súng Nhật được chế tạo từ năm 1600 có báng súng được làm bằng ngà voi…
Do số lượng cổ vật sưu tầm lớn nên ông Cường phải chia làm 3 nơi để trưng bày, triển lãm tại một căn nhà ở trung tâm quận 1 và hai nơi khác ở quận 7 và quận 9 (TPHCM).
Ông Hoàng Văn Cường – người được giới chơi cổ vật mệnh danh là “vua cổ vật Sài Gòn” bởi số lượng cổ vật ông sưu tầm có gần 2.000 hiện vật và giá trị khoảng 100 triệu USD
“Cổ vật gắn với cuộc sống hằng ngày của tôi. Nó như một món ăn tinh thần không thể thiếu. Từ lúc biết chơi cổ vật đến nay đã 46 năm sưu tầm, tôi chỉ biết mua chứ không bán. Bởi mỗi cổ vật đều có giá trị riêng và ý nghĩa khác nhau” – “ông vua đồ cổ” đất Sài thành chia sẻ.
Theo giới chơi cổ vật, tổng số cổ vật của ông Cường có giá trị khoảng 100 triệu USD.
Chiếc sập có tuổi đời 300 năm của một viên quan người Huế mua lại từ Trung Quốc. Chiếc sập này được làm bằng gỗ Lệ Chi với những đường chạm trổ tinh xảo. Đã có người trả 2 triệu USD nhưng ông Cường không bán.
Trong những món đồ giá trị của ông Cường có 9 chiếc long sàng (giường của vua). Những món đồ này đều có giá trị “khủng” với giá 40 tỷ đồng.
Bộ “Cành vàng lá ngọc” được làm rất tinh xảo với nhiều chi tiết khó bằng các loại chất liệu như ngọc, mã não, san hô, hổ phách từ đời nhà Thanh, Trung Quốc có giá trị rất lớn được nhiều người chơi cổ vật say mê.
Ống đựng bút bằng ngà voi cũng có từ thế kỷ thứ 18 với giá trị “khủng”.
Mã đáo thành công có chất liệu làm bằng ngà voi được chạm trổ rất tinh xảo.
Nhiều chum, hũ có giá trị từ vài chục đến vài trăm triệu đồng của “ông vua đồ cổ Sài Gòn”, trong đó có những cổ vật men sứ màu lam hay bộ sưu tập độc sắt (chỉ một màu trắng).
Nhiều bình, bát, dĩa có niên đại cách đây cả trăm năm. Có cổ vật có niên đại gần ngàn năm.
Bộ bình ly uống trà có niên đại rất cao nó được làm bằng sứ. Ông Cường cho biết ngoài giá trị về thời gian, khi pha trà vào bình này “uống có hương vị rất thơm và đậm đà”.
Nhiều bình, chén có hoa văn rất tinh tế. Giá trị của nó thuộc vào loại “khủng”.
Bộ sưu tập đèn bằng pha lê trong suốt của “vua đồ cổ Sài thành”
Những con vật thân thương, gắn liền với cuộc sống nông thôn Việt Nam cũng nằm trong bộ sưu tập của “vua đồ cổ”.
Tẩu hút thuốc của các vị quan, chức sắc ngày xưa. Có tẩu làm hoàn toàn bằng ngọc.
Chiếc chuông cổ có niên đại cách đây hơn 200 năm. Ông Cường kết duyên với sưu tầm cổ vật cách đây 46 năm và thừa hưởng “máu” sưu tầm cổ vật của ông nội và cha.
Bộ sưu tập về tượng các cô gái thời xưa. Ngoài điểm trưng bày là căn nhà ông đang ở, hiện tại ông Cường còn có 2 địa điểm trưng bày cổ vật khác ở quận 7 và quận 9. Số lượng cổ vật khổng lồ này được ông sưu tập từ khắp nơi, cả trong và ngoài nước.
Từ lúc biết chơi cổ vật đến giờ, ông Cường chỉ biết mua chứ không bán món nào. Bởi theo ông mỗi cổ vật đều có ý nghĩa và giá trị rất riêng.
Nhiều món cổ vật của ông Cường được giới chơi đồ cổ thèm muốn nhưng không được. Có người đưa tấm séc để ông tự ghi số tiền vào nhưng ông vẫn nhất quyết không bán. Trong ảnh là bộ vòng ngọc, trang sức của cô gái trong gia đình quyền quý ngày xưa. Tổng giá trị cổ vật của ông Cường theo giới chơi đồ cổ đánh giá khoảng 100 triệu USD.
Bộ sưu tập báu vật “siêu khủng” của đại gia Ninh Bình
Sau hơn 43 năm rong ruổi khắp nơi sưu tầm đồ cổ, hiện ông Đinh Văn Dần,sinh năm 1950, ở phường Bích Đào, (TP Ninh Bình) đang sở hữu hàng nghìn cổ vật quý giá.
Ông Dần, cho biết, trong bộ sưu tập cổ vật của ông có nhiều cổ vật mang tầm bảo vật quốc gia như: Bình, tháp, ấm, bát gốm sứ Lý Hoa nâu(thời nhà Lý); lư hương, ấm gốm thời nhà Mạc; đèn gốm đầu hạc nhà Lý; ấm rượu thời Lý; đèn nhà Trần; ghè thời Minh, đôi nghê thời Lê…
Với ông cổ vật quý không quan trọng được làm bằng chất liệu gì chỉ cần có có giá trị về thời gian, có tính thẩm mỹ cao. Chính vì thế bộ sưu tập cồ vật của ông rất phong phú và đa dạng về chất liệu như: Gốm sứ, đồng, đá, sắt, gỗ, ngọc…
Được biết, ngoài thú sưu tầm cổ vật ông Dần còn nhận sửa chữa, phục chế hoa văn, họa tiết cổ vật để kiếm thêm tiền sưu tầm thêm cổ vật.
Ông Dần chia sẻ: “ Tương lai tôi muốn xây bảo tàng để trưng bày hết những cổ vật mình có và sau này sẽ để lại toàn bộ cho con cháu tôi. Với tôi cổ vật quý là vô giá trị, nó là tinh hoa, là di sản của mỗi thời kỳ đất nước nên tôi muốn sưu tầm, gìn giữ và bảo về cho thế hệ mai sau. Tôi rất mong con cháu tôi sau này sẽ kế thừa thú chơi cổ vật của tôi gìn giữ, phát huy hết giá trị của cổ vật”.
Sau đây mời độc giả cùng chiêm ngưỡng bộ sưu tập cổ vật “siêu khủng” của ông Dần được phóng viên Báo Dân Sinh ghi lại.
Tốt nghiệp Đại học cơ điện Thái Nguyên loại ưu nhưng ông Dần không theo nghề mà lại say mê chơi, sưu tầm cổ vật.
Một góc trưng bày cổ vật quý của ông Dần.
“Lọ Mai Bình (Tuyên Đức niên chế) cao 45cm thuộc loại gốm Việt cao cấp thời nhà Minh, được sản xuất, chế tác năm vua Tuyên Đức, đến giờ vẫn lành nguyên vẹn, đầy đủ hoa văn, chữ nghĩa. Ông Dần cho biết đây là món đồ đầu tiên ông mua và hiện tại giá trị quốc tế của nó là khoảng 15 triệu đôla. Hiện tại ông có 3 chiếc bình này.
Cận cảnh hoa văn tinh tế của một chiếc lọ Mai Bình.
Chiếc bình Lý Hoa nâu là một trong 4 cổ vật quý thuộc dòng gốm sứ thời nhà Lý. Nhiều người trả tiền tỷ nhưng ông không bán. Bình còn nguyên vẹn, họa văn, họa tiết từ 5- 7 tầng rõ nét như: Hoa sen quấn, hoa cúc, hoa thị, người, phật, quỷ đội cánh sen. Theo lời ông cổ vật thời Lý mang đậm dấu ấn phật giáo vì thời đó đạo phật được tôn xùng và con là quốc giáo.
Trong bộ sưu tầm của ông có nhiều cổ vật tầm cổ vật quốc gia như lư hương men ngọc lam sám thời nhà Mạc, cao khoảng 30 cm, lành tuyệt đối cao. Hoa văn trên lư hương gồm rồng, phương, chim, cánh sen và minh văn, thái cực nó mang ý nghĩa thể hiện sự tâm linh cao quý.
Đèn dầu gốm đầu hạc thời nhà Lý là cổ vật ông rất quý và tự hào vì cả nước có vài cái và trên bảo tàng Quốc Tế có một cái nhưng đêu bị sứt, mẻ, hỏng men và xấu không được đẹp bằng của ông.
Chiếc mặt nạ Mo Mường của ông Dần được Unesco dán tem công nhận là di sản văn hóa.
Đôi nghê thời Lê, cao 30cm, thân vảy rồng, mặt sư tử.
Một chiếc bình rượu gốm sứ thời nhà Mạc, men lam, hình cá đâu chim, cao 20cm, rộng khoảng 7cm, trên thân ấm có hoa văn như dải lụa, ngư tảo.
Rìu đá cổ.
Ông Dần, sở hữu rất nhiều bình vôi thời Lý.
Ông Dần tận dụng chiếc phản để bày những cổ vật quý như: Rìu đá, rìu ngọc, dao ngọc, ngọc bội, bát…
Những miếng ngọc bội quý có niên đại hàng nghìn năm từ các thời đại triều đình khác nhau.
Sinh ra ở vùng đất có nghề truyền thống chụp ảnh, và từng hành nghề chụp ảnh kiếm sống, ông Dần tự làm cho mình một bức ảnh với tên gọi “Người sưu tầm báu vật”.
Đỗ Đức
Nguồn: http://baodansinh.vn/bo-suu-tap-bau-vat–sieu-khung-cua-dai-gia-ninh-binh-d2088.html
VỀ MỘT QUẢ ẤN CÓ NIÊN ĐẠI THỜI MẠC
NGUYỄN CÔNG VIỆT
TS. Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Trong cuốn Ấn chương Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX xuất bản cuối năm 2005 tại mục II Ấn chương Việt Nam thời Mạc chúng tôi giới thiệu sơ lược và trong đó chỉ mới khảo tả giới thiệu ba quả ấn đồng thuộc lực lượng quân đội cùng mấy sắc phong thần(1). Việc sưu tầm bổ sung ấn chương thời Mạc nói riêng và ấn chương Việt Nam nói chung vẫn được chúng tôi tiếp tục thực hiện. Gần đây được một nhà nghiên cứu và sưu tầm cổ vật quen biết cung cấp một số ấn tín và hiện vật cổ bằng đồng, trong đó có một quả ấn khắc ghi niên đại thời Mạc; bài viết xin được giới thiệu về quả ấn này qua việc đối chiếu với số ấn thời Mạc và những ấn tín khác đã công bố.
Ấn có chất liệu bằng đồng, trọng lượng 460g. Ngoại hình ấn làm kiểu chuôi vồ thắt giữa, khuôn mặt để ấn được làm theo hình vuông. Tổng chiều cao là 7cm. Mặt đế ấn hình vuông kích thước 7,7×7,7cm và dày 0,6cm. Mặt trên núm ấn có khắc 3 dòng chữ Hán, 2 dòng ở bên phải và một dòng ở bên trái. Bên phải dòng ngoài gần mép ấn khắc 6 chữ Trường phi Tả sở chi ấn 長 鈹 左 所 之 印. Dòng thứ hai bên phải là 4 chữ Thượng bảo ty tạo 尚 寶 司 造. Nét chữ khắc rõ ràng, nét khắc theo kiểu viết thô, chữ không đẹp, dòng giữa Thượng bảo ty tạo khắc lệch không thẳng hàng. Bên trái núm ấn khắc dòng ghi niên đại có 6 chữ Đại Chính nguyên niên nguyệt nhật 大 正 元 年 月 日. Mặt đế ấn có rìa cạnh 0,6cm, bên trong khắc 6 chữ triện. Nét khắc thô, không cân xứng. Bố cục chữ và nét chữ không đều nhau.
Dấu hình vuông có kích thước 7,7×7,7cm. 6 chữ triện xếp theo 3 hàng dọc. Chân hóa chữ triện trong dấu là 6 chữ Trường phi Tả sở chi ấn 長 鈹 左 所 之 印. Như vậy dòng chữ triện ở dấu trùng với nội dung dòng chữ Hán khắc trên núm ấn phía bên phải.
Trước hết xin được nói về niên đại của ấn. Theo như dòng chữ khắc bên trái mặt núm ấn thì niên đại của ấn ghi là năm Đại Chính nguyên niên. Đại Chính là niên hiệu của Mạc Đăng Doanh, Mạc Đăng Doanh là con trưởng của Mạc Đăng Dung lên ngôi tháng giêng năm 1530. Như vậy quả ấn này tạm thời được xác định có niên đại ghi năm 1530. Tuy nhiên dòng ghi niên đại mới chỉ là một trong các tiêu chí để xác định niên đại của ấn tín nói riêng và cổ vật nói chung. Muốn xác định chúng ta phải căn cứ vào ngoại hình, chất liệu, văn tự ký hiệu khắc trên ấn và đặc biệt là nội dung được khắc ở mặt đế ấn. Đồng thời phải có các ấn tín khác cùng thời, cùng loại hình lĩnh vực để đối chiếu so sánh phân tích. Điều may mắn là chúng tôi đã có ba quả ấn thời Mạc khác có nhiều điểm tương tự coi như những dị bản, dị vật để đối chiếu.
Ba quả ấn thời Mạc đã công bố hiện được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đều có chất liệu bằng đồng. Ngoại hình tương đối giống nhau với núm ấn làm kiểu chuôi vồ và khuôn mặt đế ấn được đúc theo hình vuông. Chữ Hán khắc trên cả ba quả ấn này đều có điểm tương tự, phía bên trái mặt núm ấn là dòng ghi niên đại, bên phải mặt núm có hai dòng, dòng ngoài rìa ghi nội dung văn khắc mặt dấu và dòng bên cạnh ghi cơ quan tạo ấn.
Quả ấn thứ nhất có ký hiệu LSb 2529 có chiều cao 9cm dày 0,8cm. Mặt đế ấn hình vuông kích thước 7,5×7,5cm. Mặt núm ấn dòng bên trái khắc 6 chữ Đại Chính ngũ niên nguyệt nhật 大 正 元 年 月 日. Dòng bên phải hàng trong khắc 4 chữ Thượng bảo ty tạo 尚 寶 司 造. Dòng ngoài khắc 6 chữ Hoành Hải Hậu sở chi ấn 橫 海 後 所 之 印. Đây là ấn của viên tướng Hậu sở Hoành Hải được chế tạo năm Đại Chính thứ 5 (1534) đời Mạc Đăng Doanh.
Ấn thứ hai có ký hiệu LSb 2531, chiều cao là 9cm và dày 0,7cm. Mặt ấn hình vuông kích thước 7,5×7,5cm. Mặt núm ấn dòng bên trái khắc 6 chữ Cảnh Lịch nhị niên nguyệt nhật 景 歷 二 年 月 日. Dòng ngoài bên phải khắc 6 chữ Thanh tái Tả sở chi ấn 清 塞 左 所 之 印, dòng trong khắc 4 chữ Thượng bảo ty tạo. Đây là ấn của viên tướng Tả sở Thanh tái được chế tạo năm Cảnh Lịch thứ 2 (1549) đời Mạc Phúc Nguyên.
Ấn thứ ba có ký hiệu LSb 2530, cao 9cm và dày 0,6cm. Núm ấn phía bên trái khắc 6 chữ Thuần Phúc tam niên nguyệt nhật 淳 福 三 年 月 日. Bên phải khắc 9 chữ Khuông Trị vệ Lăng Xuyên tiền sở chi ấn 匡 治 衛 凌 川 前 所 之 所. Dòng bên cạnh cũng khắc 4 chữ Thượng bảo ty tạo giống như các ấn trên. Đây là ấn của viên tướng Tiền sở Lăng Xuyên thuộc vệ Khuông Trị được chế tạo năm Thuần Phúc thứ ba (1564) đời Mạc Mậu Hợp.
Như vậy so sánh quả ấn mới phát hiện với ba quả ấn thời Mạc trên ta thấy có nhiều điểm tương đối giống nhau. Các ấn đều có chất liệu bằng đồng, ngoại hình cùng kiểu núm chuôi vồ và mặt đế ấn làm theo hình vuông. Thể thức khắc chữ Hán trên mặt núm ấn đều có ba dòng chữ, bên trái là dòng niên hiệu, bên phải là dòng ghi nội dung giống như ở mặt dấu và bên cạnh ghi cơ quan tạo ấn là Ty Thượng bảo (Thượng bảo ty tạo)(2). Cũng như giá trị của dòng ghi niên hiệu trong việc xác định niên đại, khoảng thời gian tạo ấn, dòng chữ Thượng bảo ty tạo là một trong các tiêu chí quan trọng để xác định đây là quả ấn thuộc thời Mạc, nó giống như dòng chữ Vũ khố phụng tạo trên ấn đồng thời Nguyễn và dòng chữ Tân Hợi niên đông tạo trên ấn đồng thời Tây Sơn(3).
So sánh nội dung triện văn của quả ấn mới với ba ấn đã công bố cũng có nhiều điểm giống nhau. Ấn mới có 6 chữ triện (bằng số chữ của 2 ấn ký hiệu LSb 2529 và LSb 2531. Đây là ấn của một viên tướng chỉ huy cấp sở (Tả sở Trường phi) thuộc lực lượng quân đội nhà Mạc như ba ấn đồng trên chỉ khác tên đơn vị. Chúng tôi chưa có điều kiện tra cứu tìm Tả sở Trường phi thuộc lực lượng quân đội Ngũ quân (Ngũ phủ) hay thuộc lực lượng quân sự địa phương, song chắc chắn đây là một đơn vị không lớn nằm dưới cấp Vệ trong biên chế quân đội nhà Mạc.
Về hình thức, kiểu chữ triện khắc trên ấn mới không khác ba ấn cũ, nhưng nét khắc và bố cục khuôn chữ có điểm khác nhau. Ở ấn mới có nét khắc thô, nét dầy nét mảnh không đều nên khi in trên giấy ta thấy độ tương phản rất rõ và nét chữ không thẳng hàng. Điểm khác biệt quan trọng là kích thước của ba chữ hàng trên không giống ba chữ hàng dưới. Kích thước chiều rộng mỗi chữ là 1,8cm, nhưng chiều dài của 3 chữ hàng trên là 3,1cm, còn chiều dài của 3 chữ hàng dưới lại chỉ có 2,5cm. So sánh kích thước từng chữ của 3 quả ấn cũ thời Mạc và những ấn đồng khác chúng tôi thấy kích cỡ chữ triện trong mỗi một con dấu rất đều nhau, cả chiều dài và chiều rộng nếu xếp theo kiểu đăng đối 3 hàng 6 chữ, 4 hàng 8 chữ… Còn nếu xếp theo kiểu lẻ 3 hàng 7 chữ hoặc 8 chữ(4) thì kích thước bố cục chữ ở mỗi dòng cũng phải bằng nhau không có sự khác biệt. Đấy có lẽ là những quy tắc bất biến của việc chế tác đúc ấn mà các triều đại phong kiến đều đặt làm định lệ.
Mặt khác đo kỹ hình dấu mặt đế ấn ta thấy ấn làm không được vuông vức lắm. Cạnh bên phải và cạnh trên dài 7,7cm, cạnh dưới và bên trái chỉ dài 7,6cm. Do đó khi nhìn hình dấu sẽ thấy ngay điểm lệch không cân đối. Tất cả những khác biệt trên của quả ấn đồng mới này khiến chúng tôi có suy nghĩ: phải chăng đây là quả ấn được làm thủ công không giống ba quả ấn nhà Mạc đã công bố ? Như vậy thì ấn này không phải được tạo tác ở Ty Thượng bảo ? Nhưng ở đây mặt ấn lại khắc 4 chữ Thượng bảo ty tạo! Đấy là điều khó lý giải cho những người làm công tác sưu tầm nghiên cứu ấn chương nói riêng và cổ vật nói chung sẽ mắc phải.
Nhưng may mắn là chúng ta vẫn còn một tiêu chí quan trọng nữa để xét tính chân ngụy của quả ấn mới này, đó là chất liệu của ấn. Ấn Trường phi Tả sở này có chất liệu bằng đồng, Ten đồng có màu xanh lục loang lổ. Trông ngoại hình thì nó rất cổ và cũng giống như bao ấn đồng khác. Tham khảo ý kiến một vài nhà nghiên cứu cổ vật thì chất liệu đồng ở quả ấn này cũng có thể đến vài trăm năm tuổi ? Kiến thức này chỉ có được ở các nhà Khảo cổ học, Bảo tàng học và những người chuyên sưu tầm nghiên cứu cổ vật. Ý kiến đánh giá chất liệu đồng của ấn này sẽ là lời khẳng định giá trị trong việc xác định niên đại của ấn.
Trước tình trạng hiện nay rất nhiều cổ vật bằng đồng, bằng gốm, bằng đá, bằng ngà… và cả tài liệu thư tịch Hán Nôm được làm giả với mục đích kinh tế vụ lợi. Song chúng tôi lại rất mong muốn quả ấn công bố trong bài viết này là ấn có niên đại thật. Như vậy nó không chỉ bổ sung cho số lượng ấn chương thời Mạc nói riêng, cho ấn chương Việt Nam nói chung và cao hơn cho kho tàng di sản văn hóa dân tộc. Mong muốn của chúng tôi hy vọng sẽ được các nhà Khảo cổ học và Bảo tàng học giải đáp trong thời gian không xa.
Chú thích: Mặt trên núm ấn và dấu Trường phi Tả sở chi ấn
(1) Xem Nguyễn Công Việt: Ấn chương Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX – Mục Ấn chương Việt Nam thời Mạc Nxb. KHXH, H. 2005, từ tr.135 đến tr.152.
(2) Nhà Mạc lập Ty Thượng bảo theo cơ cấu tổ chức của nhà Lê sơ, mô phỏng theo tổ chức của nhà Minh (Trung Quốc). Ty Thượng bảo là nơi tạo đúc vật dụng kim loại, chủ yếu chế tác từ nguyên liệu đồng; Hầu hết các ấn tín đều được làm từ ty này và theo quy chế nhất định.
Xem. Ấn chương Việt Nam…Sđd, mục Thực trạng về ấn chương triều Quang Trung tr.235-249 và Ấn chương trong các cấp chính quyền địa phương thời Nguyễn, tr.401-252.
(4) Xem H.22 Dấu Phụng mệnh Tuần phủ đô tướng quân ấn (tr.121) và H.176 Quảng Nam Quảng Ngãi Tổng đốc quan phòng tr.418 – trong Ấn chương Việt Nam…Sđd./.
(Tạp chí Hán Nôm, Số 3 (76) 2006; Tr.54-57)
Nguồn: http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=99&Catid=42
PS: Cần dùng phương pháp giám định cổ vật bằng máy quang phổ hoặc thiết bị hiện đại hơn để xác minh lại hiện vật này.